TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 216/2023/HS-PT NGÀY 18/04/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Trong các ngày 12 và ngày 18 tháng 4 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 122/2023/TLPT-HS ngày 10 tháng 02 năm 2023 đối với các bị cáo Nguyễn Thị Kim C và Lê Thị T. Do có kháng cáo của các bị cáo và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 01/2023/HS-ST ngày 04/01/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang.
- Bị cáo có kháng cáo và bị kháng nghị:
1. Nguyễn Thị Kim C, sinh năm 1980 tại tỉnh Tiền Giang; nơi cư trú: ấp P, xã V, huyện G, tỉnh Tiền Giang; nghề nghiệp: Giáo viên; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn R, sinh năm 1945 và bà Lê Thị Kim H, sinh năm 1946; chồng thứ nhất: Nguyễn Tấn T1, sinh năm 1977, đã ly hôn; chồng thứ hai: Đặng Tấn K, sinh năm 1982. có 02 người con: lớn nhất sinh năm 2003, nhỏ nhất sinh năm 2014; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 16/6/2022 đến nay (có mặt).
- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Kim C: Luật sư Võ Thanh V - Công ty Luật TNHH MTV Thanh V, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Tiền Giang (có mặt).
2. Lê Thị T, sinh năm 1962 tại tỉnh Tiền Giang; nơi cư trú: ấp A, xã V, huyện G, tỉnh Tiền Giang; nghề nghiệp: làm ruộng; trình độ học vấn: 04/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn Kh, sinh năm 1917 (chết) và bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1922 (chết); chồng: không có; bị cáo có 01 người con sinh năm 1987, hiện đang định cư tại Hàn Quốc; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 16/6/2022 đến nay (có mặt).
Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Thế TH - Công ty Luật TNHH M, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Nguyễn Thị Kiều M1, sinh năm 1982 (xin vắng mặt).
Nơi cư trú: Ấp P , xã T2, huyện G, tỉnh Tiền Giang.
2. Nguyễn Hoàng K1, sinh năm 1981 (có mặt khi xét xử, vắng mặt khi tuyên án).
HKTT: ấp T3, xã S, huyện C1, tỉnh Tiền Giang.
Nơi ở hiện tại: 74/10 Châu Văn G, phường 4, thành phố A, tỉnh Long An.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Bà Hồ Thị Ngọc C2, sinh năm 1947, cư trú: ấp Ninh Q, xã Long B, huyện G, tỉnh Tiền Giang có 04 thửa đất gồm: Thửa đất số 436, tờ bản đồ số 23 tọa lạc tại ấp Ninh Quới, xã Long Bình, huyện Gò Công Tây theo Giấy CNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CA 115909 số vào sổ CH08147 do UBND huyện Gò Công Tây cấp ngày 06/5/2015; Thửa đất số 59, tờ bản đồ số 18 tọa lạc tại ấp Ninh Quới, xã Long Bình, huyện Gò Công Tây theo Giấy CNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CA 115906 số vào sổ CH08144 do UBND huyện Gò Công Tây cấp ngày 06/5/2015; Thửa đất số 239, tờ bản đồ số 22 tọa lạc tại ấp Ninh Quới, xã Long Bình, huyện Gò Công Tây theo Giấy CNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CA 115907 số vào sổ CH08145 do UBND huyện Gò Công Tây cấp ngày 06/5/2015 và 01 thửa đất khoảng 2.300 mét vuông tọa lạc tại ấp Ninh Quới, xã Long Bình, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang.
Do biết Nguyễn Thị Kim C làm môi giới bất động sản, có thể giúp làm thủ tục tách thửa đất nên ngày 11/9/2020, bà Hồ Thị Ngọc C2 ký hợp đồng ủy quyền cho C tại Văn phòng Công chứng Nguyễn Hoàng K1, trụ sở: Nguyễn Văn Côn, khu phố 3, thị trấn Vĩnh Bình, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang (số công chứng 004404, quyển số 09/TP/CC-SCC/HĐGD) với nội dung xin đăng ký trích lục, đóng thuế, lên thổ cư, tách thửa đất cho con, cháu trong gia đình, với số tiền công thỏa thuận là 5.000.000 đồng (năm triệu đồng). Theo lời khai của C do làm ăn thua lỗ, cần tiền trả nợ nên nảy sinh ý định lừa đảo để chiếm đoạt tài sản người khác nên sau khi có được Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của 04 thửa đất trên từ bà C2, C không thực hiện việc tách thửa như thỏa thuận mà nhờ bà Nguyễn Thị Y, sinh năm 1962, cư trú: ấp P, xã V, huyện G, tỉnh Tiền Giang tìm giúp C người có khuôn mặt giống bà Hồ Thị Ngọc C2 thì bà Y kêu C gặp bà Lê Thị T vì bà T có khuôn mặt hơi giống bà C2. C đã liên hệ và gặp bà Lê Thị T nhờ đóng giả Hồ Thị Ngọc C2 để ra ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì bà T đồng ý, C đưa giấy chứng minh nhân dân của bà C2 để bà T học thuộc, rồi cùng nhau thực hiện 02 vụ lừa đảo để chiếm đoạt tiền của người khác, C trả công cho bà T là 15.000.000 đồng. Cụ thể như sau:
*Vụ Thứ nhất:
Sau khi đã thỏa thuận với bà Lê Thị T về việc đóng giả bà C2, ngày 07/10/2020 Nguyễn Thị Kim C gặp và nói dối với chị Phan Thị Ngọc Huyền, là cháu nội bà C2 bị tai nạn giao thông cần tiền gấp, muốn thế chấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất số 436, tờ bản đồ số 23 tọa lạc tại ấp Ninh Quới, xã Long Bình, huyện Gò Công Tây theo Giấy CNQSDĐ quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CA 115909 số vào sổ CH08147 do UBND huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang cấp ngày 06/5/2015 để vay số tiền là 350.000.000 đồng, lãi suất là 03%/tháng, thời hạn 03 tháng, nếu không trả vốn và lãi vay thì Huyền được nộp hồ sơ sang tên. Do có quen biết, tin tưởng C nên Huyền đồng ý. Vào ngày 09/10/2020, C cùng với Lê Thị T đến Văn phòng công chứng Nguyễn Hoàng K1. Tại đây, Nguyễn Thị Kim C đã nộp hồ sơ cho Nguyễn Thị Kiều M1, là nhân viên phòng công chứng, do C thường xuyên đến văn phòng để công chứng giấy tờ liên quan đết đất đai nên M1 tin tưởng chỉ kiểm tra hồ sơ trên giấy tờ nhưng không đối chiếu hình ảnh trên giấy chứng minh nhân dân của bà Hồ Thị Ngọc C2 và người đến công chứng là Lê Thị T đóng giả bà C2.
Do chị Huyền và bà T ở cùng xã gần nhau nên C sợ chị Huyền biết mặt bà T không phải là bà C2 nên C nói với M1 là chị Huyền có việc bận nên không đến được, chị Huyền sẽ đến ký vào hợp đồng sau. M1 soạn thảo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất số 436, tờ bản đồ số 23 tọa lạc tại ấp Ninh Quới, xã Long Bình, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang với diện tích là 4400,6 m2 giữa Hồ Thị Ngọc C2 và chị Phan Thị Ngọc Huyền xong thì M1 đưa cho bà Lê Thị T (đóng giả bà C2) xem và ký tên “C2” vào Hợp đồng, C trả công cho bà T số tiền là 5.000.000 đồng. Đến chiều cùng ngày, C và Huyền đến Văn phòng công chứng gặp M1 để chị Huyền ký tên vào hợp đồng. M1 chuyển hồ sơ, Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất trên đến công chứng viên Nguyễn Hoàng K1. Công chứng viên Nguyễn Hoàng K1 không kiểm tra, đối chiếu hồ sơ, không có mặt đầy đủ của người yêu cầu công chứng theo quy định mà ký tên vào từng trang của Hợp đồng và lời chứng đã được đánh máy sẵn rồi chuyển giao cho bộ phận kế toán, bộ phận trả hồ sơ. Hợp đồng chuyển nhượng đã hoàn thành C trực tiếp nhận số tiền 350.000.000 đồng từ chị Huyền và đưa cho bà T 5.000.000 đồng.
Do thấy C chưa làm được thủ tục sang tên cho các con, cháu nên bà C2 đòi lại giấy quyền sử dụng thửa đất số 436, tờ bản đồ số 23. Ngày 28/11/2020, C liên lạc với Huyền xin mượn lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với lý do là con của bà C2 ở nước ngoài về muốn xem lại sổ. Tin lời C nên Huyền giao lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho C. Đến tháng 12/2020 sau nhiều lần đòi lại nhưng C không trả lại nên chị Huyền tìm đến nhà bà C2 thì mới phát hiện người ký tên hợp đồng chuyển nhượng không phải là bà C2 mà do Lê Thị T ký tên nên Huyền đã làm đơn tố cáo C về hành vi Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
*Vụ thứ hai:
Ngày 19/10/2020, Nguyễn Thị Kim C gặp và nói dối với chi Liêu Ngọc Dung, sinh năm 1966, cư trú: số 7/10A, Đinh Bộ Lĩnh, phường 8, thành phố M1 Tho, tỉnh Tiền Giang là bà C2 cần tiền gấp nên muốn thế chấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của thửa đất số 239 tờ bản đồ số 22 tại ấp Ninh Quới, xã Long Bình, huyện Gò Công Tây với diện tích đất là 3548,6 m2 để vay số tiền 250.000.000 đồng, lãi suất là 04%/ tháng nên Dung đồng ý.
Ngày 21/10/2020 C thông qua mạng xã hội Zalo chụp, gửi hình ảnh, thông tin của bà Hồ Thị Ngọc C2 và chị Liêu Ngọc Dung cho Nguyễn Thị Kiều M1 nhờ soạn thảo trước Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà C2 và Liêu Ngọc Dung. Đến khoảng 11 giờ cùng ngày, C cùng với bà Lê Thị T và chị Dung đến Văn phòng công chứng Nguyễn Hoàng K1, đưa hồ sơ bản gốc cho Kiều M1, do tin tưởng C nên M1 chỉ kiểm tra hồ sơ nhưng không đối chiếu hình ảnh trong giấy chứng minh nhân nhân của Hồ Thị Ngọc C2 và người đến công chứng là Lê Thị T đóng giả bà C2.
Sau khi soạn thảo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất xong thì M1 đưa cho bà Lê Thị T (đóng giả bà C2) xem và ký tên “C2” vào Hợp đồng và chị Dung cũng đã ký vào. Sau khi đã được hai bên ký, M1 chuyển hồ sơ trên đến công chứng viên Nguyễn Hoàng K1. Công chứng viên Nguyễn Hoàng K1 không kiểm tra, đối chiếu hồ sơ, không kiểm tra hình ảnh trong giấy chứng minh nhân dân với người yêu cầu công chứng mà ký tên vào từng trang của Hợp đồng và lời chứng đã được đánh máy sẵn rồi chuyển giao cho bộ phận kế toán, bộ phận trả hồ sơ. Hợp đồng chuyển nhượng đã hoàn thành. Bà Lê Thị T trực tiếp nhận số tiền 250.000.000 đồng từ chị Dung sau đó bà T đưa lại cho C. C trả công cho bà T số tiền là 10.000.000 đồng Đến tháng 12/2020, C gặp chị Dung xin mượn lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với lý do là con của bà C2 ở nước ngoài về muốn xem lại. Do nghi ngờ C lừa dối nên không đưa Giấy chứng nhận quyền sử đất cho C mà tự mình đi tìm hiểu thì phát hiện người ký tên chuyển nhượng không phải là bà C2 mà là bà T do C thuê mướn đóng giả nên Dung nên đã làm đơn tố cáo C về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
*Tài liệu thu giữ, xử lý gồm:
- 01 (một) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thửa đất bản chính, thửa đất số 239, tờ bản đồ số 22, diện tích 3548,6m2, tên Hồ Thị Ngọc C2. Số CMND số:
310158862, địa chỉ: ấp Ninh Quới, xã Long Bình, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang (do Nguyễn Thị Kim C giao nộp, đã trả lại cho bà Hồ Thị Ngọc C2 ngày 21/10/2021).
- 01 (một) Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất bản chính, Số:
005060, thửa đất số 436, tờ bản đồ số 23, địa chỉ: ấp Ninh Quới, xã Long Bình, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang, diện tích 4400,6 m2 bên chuyển nhượng: Hồ Thị Ngọc C2, bên nhận chuyển nhượng: Phan Thị Ngọc Huyền, công chứng ngày 09/10/2020) do Công chứng viên Nguyễn Hoàng K1 - Văn Phòng công chứng Nguyễn Hoàng K1 ký (do Văn phòng công chứng Nguyễn Hoàng K1 cung cấp).
- 01 (một) Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất bản chính, Số:
005254, thửa đất số 239, tờ bản đồ số 22, địa chỉ: ấp Ninh Quới, xã Long Bình, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang, diện tích 3548,6m2 bên chuyển nhượng: Hồ Thị Ngọc C2, bên nhận chuyển nhượng: Liêu Ngọc Dung, công chứng ngày 21/10/2020) do Công chứng viên Nguyễn Hoàng K1 - Văn Phòng công chứng Nguyễn Hoàng K1 ký (do Văn phòng công chứng Nguyễn Hoàng K1 cung cấp).
*Tại bản kết luận giám định số 210/KL-KTHS(Đ2) ngày 03/3/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tiền Giang kết luận:
- Chữ viết họ tên “Hồ Thị Ngọc C2” trên các tài liệu cần giám định ký hiệu A1 (01 (một) “HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT”, Số: 005060, bên chuyển nhượng: Hồ Thị Ngọc C2, bên nhận chuyển nhượng: Phan Thị Ngọc Huyền, công chứng ngày 09/10/2020) và kí hiệu A2 (01 (một) “HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT”, Số: 005254, bên chuyển nhượng: Hồ Thị Ngọc C2, bên nhận chuyển nhượng: Liêu Ngọc Dung, công chứng ngày 20/10/2020) so với chữ viết mang tên “Lê Thị T” trên các tài liệu mẫu ký hiệu M1 đến M3 gồm: 01 (một) “BIÊN BẢN GHI LỜI KHAI”, ghi ngày 24/02/2021, kí hiệu M1; 01 (một) “BẢN TƯỜNG TRÌNH”, đứng tên Lê Thị T, ghi ngày 10 tháng 5 năm 2021, kí hiệu M2 và 01 (một) Bảng chữ viết có nội dung bắt đầu và kết thúc bằng các từ : “Tôi là Lê Thị T, sanh năm 1962…- Hồ Thị Ngọc C2: ngày 10-5-2021; Lê Thị T”, ký hiệu M3 là do cùng một người viết ra.
*Tại bản kết luận giám định số 731/GĐ-KTHS(Đ2) ngày 09/8/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tiền Giang kết luận:
- Chữ ký dạng chữ viết “C2” dưới “BÊN A” (trang 4) trên các tài liệu cần giám định ký hiệu A1 (01 (một) “HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT”, Số: 005060, bên chuyển nhượng (Bên A): Hồ Thị Ngọc C2, bên nhận chuyển nhượng (Bên B): Phan Thị Ngọc Huyền, công chứng ngày 09/10/2020 (gồm 5 trang) và A2 (01 (một) “HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT”, Số: 005254, bên chuyển nhượng (Bên A): Hồ Thị Ngọc C2, bên nhận chuyển nhượng (Bên B): Liêu Ngọc Dung, công chứng ngày 20/10/2020 (gồm 5 trang) so với chữ ký dạng chữ viết “Cam”, mang tên Hồ Thị Ngọc cầm trên các tài liệu mẫu ký hiệu M1 đến M5 (gồm: 01 (một) “HỢP ĐỒNG ỦY QUYỀN, THUÊ MƯỚN”, ghi ngày 27 tháng 8 năm 2020 (kí hiệu M1); 01 (một) “GIẤY BIÊN NHẬN TIỀN”, bên giao tiền: “Hồ Thị Ngọc C2, bên nhận tiền: “ Nguyễn Thị Kim C”, ghi ngày 27 tháng 8 năm 2020 (kí hiệu M2); 01 (một) “HỢP ĐỒNG ỦY QUYỀN”, bên ủy quyền: “Hồ Thị Ngọc C2”, bên được ủy quyền: “Nguyễn Thị Kim C”, công chứng ngày 11 tháng 09 năm 2020 (Gồm 04 trang), (kí hiệu M3); 01 (một) “ĐƠN TỐ CÁO HÀNH VI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN” CỦA NGƯỜI KHÁC”, GHI NGÀY 18 THÁNG 01 NĂM 2021 (kí hiệu M4) và 01 (một) “BIÊN BẢN GHI LỜI KHAI”, ghi ngày 28 tháng 01 năm 2021 (kí hiệu M5) không phải do cùng một người ký ra.
* Về trách nhiệm dân sự: Chị Liêu Ngọc Dung yêu cầu bị cáo C, T và Công chứng viên Nguyễn Hoàng K1 phải bồi thường số tiền 250.000.000 đồng. Bị cáo C đã khắc phục 35.000.000 đồng, ngày 05/10/2022 Nguyễn Hoàng K1 đã khắc phục bồi thường cho chị dung 215.000.000 đồng.
- Chị Phan Thị Ngọc Huyền yêu cầu bị cáo C, T và Công chứng viên Nguyễn Hoàng K1 phải bồi thường số tiền 350.000.000 đồng. Ngày 23/9/2022 Nguyễn Hoàng K1 đã thực hiện bồi thường xong.
Tại bản cáo trạng số 54/CT-VKSTG-P2 ngày 26 tháng 10 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang đã truy tố các bị cáo Nguyễn Thị Kim C và Lê Thị T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 01/2023/HS-ST ngày 04/01/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang quyết định:
Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thị Kim C và Lê Thị T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17, Điều 38, Điều 54 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Kim C 08 (tám) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam là ngày 16/6/2022.
Xử phạt bị cáo Lê Thị T 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam là ngày 16/6/2022.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Cùng ngày 17/01/2023, bị cáo Nguyễn Thị Kim C và bị cáo Lê Thị T, có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Ngày 13/01/2023, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang có Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 01/QĐ-VKSTG-P2 đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm, tăng hình phạt đối với các bị cáo Nguyễn Thị Kim C và Lê Thị T.
Ngày 06/02/2023, bị cáo Nguyễn Thị Kim C có đơn xin rút kháng cáo.
Ngày 20/3/2023, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh ban hành Thông báo số 12/2023/TB-TA về việc rút kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Kim C.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Các bị cáo Nguyễn Thị Kim C và Lê Thị T thừa nhận hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã nêu.
Bị cáo Lê Thị T chỉ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt do bị cáo là người cao tuổi; sức khỏe yếu, đang mắc bệnh tim; gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn. Đồng thời, bị cáo không đồng ý với kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang.
Người bào chữa cho bị cáo Lê Thị T là Luật sư Nguyễn Thế TH phát biểu ý kiến: khi bị cáo C gặp bị cáo T để nhờ T đóng giả bà C2 ký hợp đồng công chứng thì chỉ nói với T là bà C2 đang bị bệnh rất cần tiền chữa bệnh, mà không có bàn bạc, thỏa thuận về tiền công. Bị cáo T một phần xuất phát từ lòng thương người, một phần do học vấn thấp, nhận thức pháp luật hạn chế nên mới đồng ý giúp C dẫn đến việc phạm tội. Nếu không có bị cáo T thì bị cáo C có thể nhờ người khác giả bà C2 ký công chứng nên vai trò của bị cáo T là thứ yếu. Ngoài các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã được Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng, bị cáo T còn có tình tiết giảm nhẹ khác như có hoàn cảnh gia đình khó khăn, đơn chiếc; bị cáo là người cao tuổi, mắc bệnh hiểm nghèo, trong trại giam không có khả năng điều trị; hậu quả đã được khắc phục hoàn toàn nên tính nguy hiểm cho xã hội không còn đáng kể. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang, chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Thị T, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Bị cáo Nguyễn Thị Kim C xác định việc rút kháng cáo của bị cáo là tự nguyện. Đồng thời, thống nhất với tội danh và hình phạt mà bản án của Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo nên yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Kim C là Luật sư Võ Thanh V phát biểu: thống nhất với tội danh mà bản án của Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo C. Sau khi phạm tội, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có nhân thân tốt; chưa có tiền án, tiền sự; đã khắc phục bồi thường một phần hậu quả nên mức án 08 năm tù mà bản án của Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo là phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội của bị cáo. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng nghị của viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang, giữ nguyên bản án sơ thẩm đối với tội danh và hình phạt của bị cáo C.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Nguyễn Hoàng K1 không có ý kiến tranh luận và đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết vụ án theo quy định pháp luật.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm: Trước khi mở phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thị Kim C đã có đơn rút kháng cáo. Việc rút kháng cáo của bị cáo C là tự nguyện nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo C.
Về kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang: Tòa án cấp sơ thẩm nhận định vai trò của các bị cáo chưa phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ chưa tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi do các bị cáo thực hiện, từ đó áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo C 08 năm tù và bị cáo T 03 năm tù là không phù hợp nên kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang là có căn cứ.
Đối với kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo T, như phân tích trên, kháng cáo của bị cáo Lê Thị T là không có cơ sở.
Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang, không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo T, sửa bản án sơ thẩm, tăng nặng hình phạt cho các bị cáo, tuyên phạt bị cáo C mức án từ 13 đến 14 năm tù, bị cáo T từ 12 năm đến 12 năm 6 tháng tù.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Trong quá trình chuẩn bị xét xử phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Thị Kim C có đơn xin rút toàn bộ kháng cáo. Xét thấy, việc rút kháng cáo của bị cáo C là hoàn toàn tự nguyện, không trái pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận việc rút kháng cáo và đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Kim C như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh là có căn cứ chấp nhận.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Nguyễn Thị Kim C và Lê Thị T đã thừa nhận hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã nêu. Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, với kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, qua đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm có đủ cơ sở để xác định như sau:
[2.1] Do thiếu nợ nhiều người không có khả năng trả nên sau khi nhận được ủy quyền cùng 04 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà Hồ Thị Ngọc C2 để tách thửa đất thì Nguyễn Thị Kim C đã nhờ Lê Thị T đóng giả làm bà Hồ Thị Ngọc C2 để ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất qua đó chiếm đoạt tiền của người khác. Cụ thể: Vào các ngày 09/10/2020 và 21/10/2020 tại Văn phòng công chứng Nguyễn Hoàng K1, trụ sở: Đường Nguyễn Văn Côn, khu phố 3, thị trấn Vĩnh Bình, huyện Gò Công Tây tỉnh Tiền Giang, dưới sự hướng dẫn của C, T đã giả bà C2 ký vào hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số: 005060, đối với thửa đất số 436, tờ bản đồ số 23, diện tích 4400,6m2 cho chị Phan Thị Ngọc Huyền để chiếm đoạt số tiền 350.000.000 đồng; và ký vào hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số: 005254, đối với thửa đất số 239, tờ bản đồ số 22, diện tích 3548,6m2 cho chị Liêu Ngọc Dung để chiếm đoạt số tiền 250.000.000 đồng. Tổng số tiền chiếm đoạt là 600.000.000 đồng, bị cáo C trực tiếp chiếm giữ 585.000.000 đồng, trả tiền thuê cho bị cáo T 15.000.000 đồng.
[2.2] Với hành vi nêu trên, bản án của Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo Nguyễn Thị Kim C và Lê Thị T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3] Xét kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang.
[3.1] Khi lượng hình, bản án của Tòa án cấp sơ thẩm xác định các bị cáo có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự phạm tội 02 lần trở lên quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, xem xét áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ đối với các bị cáo như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi phạm tội, các bị cáo đã khắc phục một phần hậu quả; có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự; phạm tội lần đầu; các bị hại đã làm đơn bãi nại và xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo; riêng bị cáo T còn có thêm tình tiết là người cao tuổi và đang bị bệnh, có hoàn cảnh gia đình thật sự neo đơn, khó khăn, cha mẹ đã chết, trình độ học vấn thấp nên khả năng nhận thức pháp luật hạn chế, dễ bị lôi kéo; được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, và áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo để xử phạt bị cáo C 08 năm tù và bị cáo T 03 năm tù.
[3.2] Tuy nhiên, giữa các bị cáo có sự tính toán, chuẩn bị từ trước trong việc thực hiện tội phạm nhằm qua mặt Văn phòng công chứng và bị hại, từ đó chiếm đoạt số tiền rất lớn chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, gây hậu quả rất nghiêm trọng nên hành vi của các bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội. Hành vi này không chỉ xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của bị hại được pháp luật bảo vệ mà còn gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Do đó, mức hình phạt tù đối với bị cáo C và bị cáo T mà bản án của Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử nêu trên là nhẹ, chưa tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi do các bị cáo thực hiện, chưa đảm bảo tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung nên cần tăng nặng hình phạt đối với các bị cáo. Vì vậy, kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang là có căn cứ chấp nhận một phần.
[4] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Lê Thị T.
Như nhận định tại mục [3.2], bản án của Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo T 03 năm tù là nhẹ nên không có cơ sở chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo.
[5] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm, không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Lê Thị T cũng như đề nghị của người bào chữa, chấp nhận nhận một phần kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang, sửa một phần bản án hình sự sơ thẩm về hình phạt của các bị cáo Nguyễn Thị Kim C và Lê Thị T như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh là có cơ sở chấp nhận một phần.
[6] Ngoài ra, về lý lịch của bị cáo C, theo lý lịch bị can (BL 149) và phần thẩm tra công khai tại phiên tòa phúc thẩm, có cơ sở xác định bị cáo Nguyễn Thị Kim C có chồng thứ nhất tên Nguyễn Tấn T1, sinh năm 1977, đã ly hôn; chồng thứ hai tên là Đặng Tấn K, sinh năm 1982. Tuy nhiên, tại phần lý lịch của bị cáo C của Bản án sơ thẩm lại ghi chồng thứ nhất của bị cáo tên Nguyễn Tiến T1, và chồng thứ hai tên Đặng Tiến K, là chưa đúng nên cần sửa lại cho đúng với lý lịch tư pháp của bị cáo.
[7] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị phát sinh hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[8] Án phí hình sự phúc thẩm: bị cáo Lê Thị T phải chịu theo quy định pháp luật về án phí, lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355, điểm a khoản 2 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Thị T; chấp nhận một phần kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang. Sửa một phần Bản án hình sự sơ thẩm số: 01/2023/HS-ST ngày 04/01/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang về hình phạt đối với các bị cáo.
Tuyên xử:
[1] Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Thị Kim C và Lê Thị T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17, Điều 38 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Kim C 10 (mười) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam là ngày 16/6/2022.
Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 54; Điều 17, Điều 38 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Lê Thị T 05 (năm) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam là ngày 16/6/2022.
Tiếp tục giam bị cáo các bị cáo Nguyễn Thị Kim C và Lê Thị T để đảm bảo thi hành án.
[2] Căn cứ Điều 348 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Kim C.
[3] Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị phát sinh hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4] Án phí hình sự phúc thẩm: bị cáo Lê Thị T phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 216/2023/HS-PT
Số hiệu: | 216/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/04/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về