Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 213/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 213/2021/HS-PT NGÀY 17/09/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 136/2021/TLPT-HS ngày 13/5/2021 đối với bị cáo Nguyễn Viết H, về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 90/2021/HS-ST ngày 24/3/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.

Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Nguyễn Viết H; Sinh ngày 04/9/1985, tại tỉnh Đắk Lắk; nơi cư trú: Thôn 1B, xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 12/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1957 và bà Nguyễn Thị Hồng T, sinh năm 1963; bị cáo có vợ là Bùi Thị Hồng H, sinh năm 1996 (đã ly thân) và có 01 con sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không; về nhân thân: Ngày 10/8/2015, bị Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 09 tháng tù, về tội “Đánh bạc”, chấp hành xong hình phạt ngày 29/6/2016 (đã được xóa án tích).

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 07/10/2020, đến ngày 26/11/2020 được hủy bỏ biện pháp tạm giam và áp dụng biện pháp băng chặn cho bảo lĩnh. Hiện bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại: Ông Trần Phước H1, sinh năm 1984; nơi cư trú: Đường P, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tai phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 02 năm 2019, Nguyễn Viết H vay mượn tiền của anh Đinh Công P và hẹn trả vào ngày 03/3/2019. Khi đến thời hạn trả nợ nhưng H chưa có tiền, nên nảy sinh ý định thuê xe ô tô tự lái mang đi cầm cố, thế chấp lấy tiền trả nợ cho anh P. Thông qua mối quan hệ quen biết với anh Nguyễn Văn T, H được anh T giới thiệu với anh Trần Phước H1 đang kinh doanh dịch vụ cho thuê xe ô tô tự lái. Sau đó, H gọi điện thoại cho anh H1 hỏi về việc muốn thuê xe ô tô tự lái thì anh H1 đồng ý. Khoảng 09 giờ ngày 03/3/2019, H đi đến nhà anh H1 tại địa chỉ đường P, phường T, thành phố B. Tại đây, H và anh H1 thống nhất thỏa thuận làm hợp đồng cho thuê xe ô tô với nội dung: Anh H1 cho H thuê chiếc xe ô tô biển số 47A - 190.xx, nhãn hiệu Toyota Innova, màu nâu vàng, thời gian thuê là 15 ngày, từ ngày 03/3/2019 đến ngày 17/3/2019, với số tiền 500.000 đồng/01 ngày, để anh H1 tin tưởng và không nghi ngờ về việc sau khi thuê xe ô tô H sẽ mang đi cầm cố, nên H đã trả đủ số tiền thuê xe là 7.500.000 đồng. Sau khi thuê được xe, H điều khiển xe ô tô về thị trấn P, huyện K, tỉnh Đắk Lắk, gặp bạn là Huỳnh Ngọc A nhờ hỏi giúp người cầm cố chiếc xe ô tô biển số 47A - 190.xx, thì anh Ngọc A đồng ý và cùng H đi gặp người quen của Ngọc A là ông Nguyễn Đức B tại địa chỉ: Thôn MB, xã P, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Do ông B không kinh doanh dịch vụ cầm đồ, nên không đồng ý cầm cố chiếc xe ô tô và giới thiệu H gặp anh Nguyễn Đức A1 (sinh năm 1985, trú tại: Thôn MB, xã P, huyện E, tỉnh Đắk Lắk, là cháu ruột của ông B), để cầm cố chiếc xe ô tô, thì anh Nguyễn Đức A1 đồng ý. H và Nguyễn Đức A1 thỏa thuận: Anh A1 nhận cầm cố chiếc xe ô tô biển số 47A - 190.xx với số tiền 150.000.000 đồng, nhưng vì anh A1 chỉ kinh doanh dịch vụ mua bán xe ô tô và mô tô, nên yêu cầu H viết 01 giấy bán xe đề ngày 03/3/2019 với nội dung: Nguyễn Viết H bán cho anh Nguyễn Đức A1 01 chiếc xe ô tô nhãn hiệu Toyota Innova, biển số 47A - 190.xx, màu nâu vàng với số tiền 150.000.000 đồng…, thì H đồng ý viết giấy bán xe và lấy số tiền có được từ việc cầm cố chiếc xe ô tô trả cho anh P. Sau đó H đi đến thành phố N, tỉnh Khánh Hòa để mượn tiền chuộc lại chiếc xe ô tô. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, H đi đến gặp anh Nguyễn Đức A1 trả tiền và chuộc lại chiếc xe ô tô biển số 47A - 190.xx, rồi sử dụng vào việc đi lại. Đến sáng ngày 13/3/2019, H nảy sinh ý định tiếp tục mang chiếc xe ô tô biển số 47A - 190.xx, thuê của anh H1 đi cầm cố để lấy tiền đánh bạc và tiêu xài cá nhân. Khoảng 12 giờ cùng ngày, H điều khiển chiếc xe ô tô đến nhà ông Nguyễn Đức B và hỏi mượn của ông B số tiền 150.000.000 đồng và để lại chiếc xe ô tô biển số 47A - 190.xx để làm tin, thì ông B đồng ý. Đến khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày, khi H sử dụng và tiêu xài cá nhân hết số tiền trên nên tiếp tục đi đến hỏi mượn ông B số tiền 100.000.000 đồng và để lại 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất rẫy của ông Nguyễn Văn H (là bố ruột của H) cho ông B để làm tin, thì ông B yêu cầu H viết 01 giấy vay tiền với nội dung: Nguyễn Viết H mượn của anh Nguyễn Đức B số tiền 250.000.000 đồng, H để lại chiếc xe ô tô 47A- 190.37, cùng 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Nguyễn Văn H để làm tin, hẹn đến ngày 30/3/2019 sẽ trả tiền cho anh B…. Sau đó, H tiếp tục sử dụng tiền vào mục đích đánh bạc và tiêu xài cá nhân hết và không có khả năng trả nợ cho ông B để lấy chiếc xe ô tô biển số 47A - 190.xx trả lại cho anh H1, nên H bỏ đi khỏi địa phương và lẩn trốn tại địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi biết được việc Nguyễn Viết H thuê chiếc xe ô tô rồi mang đi cầm cố, anh Trần Phước H1 đã làm đơn tố cáo H về hành vi lừa đảo chiếm đoạt chiếc xe ô tô biển số 47A - 190.xx như trên.

Sau khi nhận cầm cố chiếc xe ô tô biển số 47A - 190.xx, ông Nguyễn Đức B đã mang chiếc xe ô tô đến gửi tại nhà anh họ là ông Nguyễn Ngọc K, trú tại: Xã P, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Ngày 06/4/2019, ông K đã tự nguyện giao nộp cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột chiếc xe ô tô biển số 47A - 190.xx, nhãn hiệu Toyota Innova, màu nâu vàng, 01 giấy chứng nhận kiểm định số 7388553 và 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của xe ô tô biển số 47A - 190.xx, để phục vụ công tác điều tra. Ngày 07/10/2020, Nguyễn Viết H đã tự nguyện đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.

Quá trình xác minh, anh Trần Phước H1 đã tự nguyện giao nộp 01 hợp đồng cho thuê xe đề ngày 03/3/2019; anh Nguyễn Đức A1 đã giao nộp 01 giấy bán xe đề ngày 03/3/2019; ông Nguyễn Đức B đã giao nộp 01 giấy vay tiền (không ghi ngày tháng năm viết) cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột để phục vụ công tác điều tra. Anh H1 yêu cầu Nguyễn Viết H phải bồi thường thiệt hại và chi phí sửa chữa chiếc xe ô tô biển số 47A - 190.xx, với tổng số tiền là 30.500.000 đồng; ông Nguyễn Đức B yêu cầu H bồi thường số tiền 250.000.000 đồng, là tiền ông B đã cầm cố chiếc xe ô tô biển số 47A - 190.xx và 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 96/KLĐG ngày 02/5/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Buôn Ma Thuột, kết luận: 01 xe ô tô nhãn hiệu Toyota Innova, màu sơn nâu vàng, biển kiểm soát 47A - 190.xx, số máy 1TR7920483, số khung RL4XW42G1E9414987, năm sản xuất 2014, trị giá 465.000.000 đồng.

Tại bản kết luận giám định số 1042/PC09 ngày 18/11/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Lắk kết luận: Chữ ký, chữ viết mang tên Nguyễn Viết H trong các tài liệu gồm: Giấy vay tiền không ghi ngày tháng năm viết; Hợp đồng cho thuê xe đề ngày 03/3/2019 và giấy bán xe đề ngày 03/3/2019, so với chữ ký, chữ viết của Nguyễn Viết H trong các tài liệu mẫu so sánh là do cùng một người ký và viết ra.

Ngày 04/10/2020, Nguyễn Viết H và gia đình đã tự nguyện bồi thường cho anh Trần Phước H1 số tiền 30.500.000 đồng. Ngày 29/8/2020, Nguyễn Viết H và gia đình đã tự nguyện bồi thường cho ông Nguyễn Đức B số tiền 100.000.000 đồng. Sau khi nhận tiền, ông B đã trả lại 02 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất rẫy cho gia đình Nguyễn Viết H và yêu cầu H phải bồi thường số tiền còn lại là 150.000.000 đồng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 90/2021/HS-ST ngày 24/3/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Viết H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Viết H: 10 (mười) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án. Bị cáo được khấu trừ thời gian đã bị tạm giam từ ngày 07/10/2020 đến ngày 26/11/2020.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo và quyền thi hành án theo quy định pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 02/4/2021 bị cáo Nguyễn Viết H kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Viết H giữ nguyên nội dung kháng cáo và đã khai nhận hành vi mà bị cáo đã thực hiện đúng như nội dung vụ án đã được tóm tắt nêu trên.

Quá trình tranh luận tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát đã phân tích, đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 3 Điều 174 Bộ luật hình sự, là đúng người, đúng tội.

Về mức hình phạt 10 năm tù mà bản án sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc so với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, vì bị cáo phạm tội nhưng có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nên cần xem xét giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355 và điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự; Chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm về hình phạt.

Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Viết H từ 09 năm đến 09 năm 06 tháng tù.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

Bị cáo không tranh luận, bào chữa gì và chỉ đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai của bị cáo Nguyễn Viết H tại phiên tòa phúc thẩm là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với lời khai của người bị hại và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận: Do muốn có tiền tiêu xài nên Nguyễn Viết H nảy sinh ý định thuê xe ô tô tự lái để đem đi cầm cố, thế chấp lấy tiền tiêu xài cá nhân và trả nợ. Vào ngày 03/3/2019 bị cáo Nguyễn Viết H đã đưa ra thông tin gian dối là thuê chiếc xe ô tô biển số 47A - 190.xx, nhãn hiệu Toyota - Innova của anh Trần Phước H1, để sử dụng đi lại; để anh H1 tin tưởng, không nghi ngờ, bị cáo đã trả trước tiền thuê xe cho anh H1 và anh H1 đã giao chiếc xe ô tô biển số 47A - 190.xx cho bị cáo. Tuy nhiên, sau khi nhận xe của anh H1, thì bị cáo đã đem chiếc xe ô tô biển số 47A - 190.xx đi cầm cố, thế chấp cho nhiều người để lấy tiền sử dụng vào mục đích trả nợ, đánh bạc và tiêu xài cá nhân. Tài sản bị cáo chiếm đoạt là chiếc xe ô tô biển số 47A - 190.xx, nhãn hiệu Toyota - Innova của anh Trần Phước H1, qua định giá có trị giá là 465.000.000 đồng. Do đó, bản án sơ thẩm đã xét xử bị cáo Nguyễn Viết H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 3 Điều 174 của Bộ luật hình sự là có căn cứ và đảm bảo đúng người, đúng tội.

[2] Đối với kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Viết H, xét thấy: Về mức hình phạt 10 năm tù mà bản án sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc so với tính chất, mức độ và hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo đã thực hiện, bởi lẽ: Sau khi phạm tội bị cáo đã tự nguyện bồi thường toàn bộ thiệt hại cho người bị hại anh Trần Phước H1, đã được người bị hại làm đơn bãi nại và đã bồi thường một phần thiệt hại cho người có quyền lợi liên quan là ông Nguyễn Đức B; quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã ra đầu thú và bị cáo có bố đẻ và ông Ngoại là người có công với Cách mạng. Đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự, nên cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo là phù hợp. Do đó, cần chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo và sửa bản án sơ thẩm về hình phạt.

[3] Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên Hội đồng xét xử không xem xét và đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355 và điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Viết H, sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 90/2021/HS-ST ngày 24/3/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk về hình phạt.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Viết H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng: Điểm a khoản 3 Điều 174; điểm b, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Viết H 09 (chín) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, bị cáo đươc khấu trừ thời gian đã bị tạm giam từ ngày 07/10/2020 đến ngày 26/11/2020.

[2] Về án phí: Áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Viết H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

288
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 213/2021/HS-PT

Số hiệu:213/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về