Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 21/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CỦ CHI, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 21/2022/HS-ST NGÀY 27/01/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Trong ngày 27 tháng 01 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 140/2020/TLST-HS ngày 15 tháng 6 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 175/2021/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 10 năm 2021, Quyết định hoãn phiên tòa số 69/2021/HSST-QĐHPT ngày 20 tháng 10 năm 2021 và Thông báo số 207/2021/TB-TA ngày 28 tháng 10 năm 2021, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Tuấn V, sinh năm 1999; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp 4, xã T, huyện C, tỉnh Đồng Tháp; chỗ ở: Ấp B, xã T, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: V1 Nam; cha: ông Nguyễn Văn K, mẹ: bà Lê Thị M; anh chị em ruột gồm có 03 người kể cả bị cáo; bị cáo chưa có vợ, con.

Tiền án: Ngày 29/5/2018 bị Tòa án nhân dân huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”, ngày 22/01/2020 chấp hành xong hình phạt trở về địa phương, đã đóng án phí theo biên lai số 23229 ngày 22/8/2018.

Tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 06/4/2021 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Ông Huỳnh Mạnh H, sinh năm 2000 (vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp R, xã M, huyện Đ, tỉnh Long An.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Ông Nguyễn Bá V, sinh năm 1977 (vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp C, xã P, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh.

Địa chỉ liên lạc: Ấp B, xã P, huyện C, Thành phố Hồ Chí Mnh.

+ Ông Nguyễn Hoàng V, sinh năm 1992 (vắng mặt).

Địa chỉ: Tổ 3, ấp B, xã T, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Người làm chứng:

+ Ông Lê Văn G, sinh ngày 31/7/2003 (vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp G, xã M, huyện Đ, tỉnh Long An.

+ Bà Lê Thị M, sinh năm 1977 (vắng mặt).

Hộ khẩu thường trú: Ấp 4, xã T, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp. Tạm trú: Ấp B, xã T, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Anh Huỳnh Mạnh H cần bán xe nên lên mạng xã hội facebook rao bán chiếc xe mô tô biển số 62S1-162.97 với giá 12.500.000đ (Mười hai triệu năm trăm nghìn đồng). Lúc này Nguyễn Tuấn V sử dụng mạng facebook, nickname “Batchap” nhìn thấy thông tin của anh H về việc bán xe. Do cần tiền tiêu xài cá nhân và mua ma túy để sử dụng nên V nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc xe mô tô của anh H. V nhắn tin qua ứng dụng messenger để giả vờ hỏi mua xe của anh H để tìm cơ hội chiếm đoạt và hẹn anh H cho xem xe tại quán cà phê không tên thuộc ấp B, xã T, huyện C vào ngày 18/01/2021 để giao dịch. V kể sự việc và ý định chiếm đoạt tài sản của anh H cho một người phụ nữ tên T nghe và nhờ T hỗ trợ cho V mượn điện thoại di động để liên lạc và chở V đi lại khi thực hiện hành vi chiếm đoạt (do V không có điện thoại di động và xe), T đồng ý.

Khoảng 14 giờ 00 phút ngày 18/01/2021, V nhờ người bạn tên Nguyễn Hoàng V chở đến quán cà phê không tên thuộc ấp B, xã T, huyện C. Khi đến nơi, anh H đã mang xe mô tô biển số 62S1-162.97 đến đợi V. V giả vờ hỏi mượn xe chạy thử, anh H đồng ý. V nhận chìa khóa xe từ anh H rồi điều khiển xe mô tô biển số 62S1-162.97 đến nhà Nguyễn Bá V và bán cho Bá V chiếc xe với giá 2.500.000đ (Hai triệu năm trăm nghìn đồng). Sau khi bán xe xong, V mượn điện thoại di động gọi cho T chở V về và chia cho T 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng), V giữ 1.000.000đ (Một triệu đồng) và tiêu xài cá nhân hết. Nguyễn Bá V do cần tiền nên đã bán lại chiếc xe cho một người phụ nữ tên Bé B (không rõ lai lịch).

Tại quán cà phê không tên, anh H sau khi đưa chìa khóa cho V chạy thử xe vẫn đứng đợi V quay lại. V1 lúc này đang uống cà phê tại quán, thấy anh H đứng đợi nên V1 dẫn anh H đến nhà để tìm V nhưng được người nhà V cho biết V bỏ nhà đi nhiều ngày chưa về. Biết mình bị lừa nên anh H đến Công an xã T, huyện C trình báo.

Qua xác minh xác định được Nguyễn Tuấn V là người đã thực hiện hành vi phạm tội, Công an đã triệu tập V lên làm việc và V khai nhận hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của anh H.

Căn cứ Kết luận định giá tài sản số 43/KL-HĐĐGTS ngày 12/3/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thuộc Ủy ban nhân dân huyện Củ Chi kết luận: Chiếc xe gắn máy nhãn hiệu Honda Wave biển số 62S1-162.97, đã qua sử dụng, tài sản chưa thu hồi được có giá là 9.000.000đ (Chín triệu đồng).

Về dân sự: Bị hại Huỳnh Mạnh H yêu cầu V bồi thường giá trị chiếc xe đã chiếm đoạt là 10.000.000đ (Mười triệu đồng), V chưa bồi thường.

Vật chứng: Không thu giữ gì.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: V phạm tội chưa xoá án tích, thuộc trường hợp tái phạm.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.

Tại bản cáo trạng số: 143/CT-VKS ngày 14/6/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi đã truy tố bị cáo Nguyễn Tuấn V về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Khoản 1 Điều 174 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị:

- Áp dụng Khoản 1 Điều 174; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điểm h Khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn V mức án từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

- Về vật chứng: Không có.

- Về dân sự: Buộc bị cáo bồi thường cho anh H số tiền 10.000.000đ (Mười triệu đồng).

- Đối với Nguyễn Hoàng V1 chở bị cáo V đến điểm hẹn mua xe của anh H nhưng không bàn bạc, không biết và không có hành vi đồng phạm với bị cáo V nên không xử lý.

Đối với Nguyễn Bá V, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Củ Chi đã cho tiến hành đối chất nhưng không đủ cơ sở để xem xét, xử lý Nguyễn Bá V về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi thấy phù hợp.

Đối với người phụ nữ tên T, hiện chưa xác minh được nhân thân, lai lịch, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Củ Chi tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau nên không xét.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Tuấn V thừa nhận bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi truy tố về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Khoản 1 Điều 174 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là đúng, không oan sai gì cho bị cáo.

Lời nói sau cùng của bị cáo V: Bị cáo đã ăn năn, hối cải về lỗi lầm của mình, mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án, Điều tra viên, Kiểm sát viên khi thực hiện hành vi cũng như ban hành các quyết định tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định tại Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác, không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong vụ án đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo Nguyễn Tuấn V tại phiên tòa hôm nay thống nhất với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác phản ánh trong hồ sơ vụ án.

Như vậy đã có đủ cơ sở kết luận: Do cần tiền tiêu xài nên bị cáo Nguyễn Tuấn V có ý định chiếm đoạt tài sản là chiếc xe gắn máy biển số 62S1-162.97 của anh Huỳnh Mạnh H, cụ thể là vào ngày 18/01/2021, tại ấp Bàu Tre 2, xã Tân An Hội, huyện Củ Chi, bị cáo V với thủ đoạn gian dối là giả vờ hỏi mua xe, xin chạy thử xe và sau đó đem xe gắn máy biển số 62S1-162.97 đi bán lấy số tiền 2.500.000đ (Hai triệu năm trăm nghìn đồng).

Kết luận định giá tài sản số 43/KL-HĐĐGTS ngày 12/3/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thuộc Ủy ban nhân dân huyện Củ Chi kết luận: Chiếc xe gắn máy nhãn hiệu Honda Wave biển số 62S1-162.97, đã qua sử dụng, tài sản chưa thu hồi được có giá là 9.000.000đ (Chín triệu đồng).

Bằng hành vi trên, bị cáo V đã phạm vào tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, đúng như cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi đã truy tố.

Hành vi của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân, làm mất trật tự trị an xã hội, gây dư luận xấu trong nhân dân, do đó cần xử lý bị cáo bằng một hình phạt nghiêm khắc là cần thiết. Mặt khác, bị cáo từng bị Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”, chưa được xóa án tích, nay lại tiếp tục phạm tội nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm theo quy định tại Điểm h Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tuy nhiên xét thấy trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Đối với Nguyễn Hoàng V1 chở bị cáo V đến điểm hẹn mua xe của anh H nhưng không bàn bạc, không biết và không có hành vi đồng phạm với bị cáo V nên không xử lý, thấy phù hợp nên không xét.

Đối với Nguyễn Bá V, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Củ Chi đã cho tiến hành đối chất nhưng không đủ cơ sở để xem xét, xử lý Nguyễn Bá V về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, Viện kiểm sát nhân dân huyện Củ Chi thấy phù hợp, Hội đồng xét xử không xét.

Đối với người phụ nữ tên T, hiện chưa xác minh được nhân thân, lai lịch, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Củ Chi tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau nên không xét.

[3] Về trách nhiệm dân sự:

Tại phiên tòa, bị hại anh Huỳnh Mạnh H vắng mặt nhưng trong hồ sơ thể hiện anh H yêu cầu bị cáo bồi thường 10.000.000đ (Mười triệu đồng). Xét thấy tại Kết luận định giá tài sản số 43/KL-HĐĐGTS ngày 12/3/2021 của Hội đồng định giá tài sản thì chiếc xe gắn máy nhãn hiệu Honda Wave biển số 62S1- 162.97 có giá trị là 9.000.000đ (Chín triệu đồng), nhưng tại phiên tòa bị cáo đồng ý bồi thường số tiền 10.000.000đ (Mười triệu đồng) cho anh H nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

Như vậy cần buộc bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường cho anh H số tiền là 10.000.000đ (Mười triệu đồng) ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật là phù hợp.

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

[4] Về vật chứng: Không có nên Hội đồng xét xử không xét.

[5] Về án phí:

Xét cần buộc bị cáo phải nộp tiền án phí hình sự và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/10/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Khoản 1 Điều 174; Điểm s Khoản 1 Điều 51; Điểm h Khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tuấn V phạm tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Tuấn V 01 (Một) năm 09 (Chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 06/4/2021.

- Căn cứ Điều 584; Điều 585; Điều 468 Bộ luật Dân sự:

Buộc bị cáo Nguyễn Tuấn V phải có trách nhiệm bồi thường cho anh Huỳnh Mạnh H số tiền 10.000.000đ (Mười triệu đồng) ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

- Căn cứ vào Khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Án phí hình sự sơ thẩm buộc bị cáo Nguyễn Tuấn V phải nộp là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

Án phí dân sự sơ thẩm buộc bị cáo Nguyễn Tuấn V phải nộp là 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng).

- Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại, người có quyền lợi - nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 21/2022/HS-ST

Số hiệu:21/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Củ Chi - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về