Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 207/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PH HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 207/2023/HS-ST NGÀY 25/09/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 190/2023/TLST-HS ngày 28 tháng 8 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 214/2023/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 9 năm 2023, đối với bị cáo:

Đỗ Bá C, sinh ngày 19 tháng 12 năm 1994, tại Hải Phòng; nơi cư trú: Thôn V, xã A, huyện A, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Bá K và bà Bùi Thị K1; bị cáo là con duy nhất; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; tạm giữ ngày 11/12/2022; tạm giam ngày 20/12/2022; có mặt;

Người bào chữa: Ông Trần Hữu K2 - Luật sư Công ty L thuộc Đoàn luật sư thành phố H; có mặt;

- Bị hại: Chị Hồ Thị H, sinh năm 1987. Nơi ĐKHKTT: Thôn A, xã P, huyện P, tỉnh Thừa Thiên Huế; nơi ở hiện nay: Số nhà C Tòa chung cư M đường L, phường Đ, quận N, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (đề nghị xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tháng 5/2021, do có quan hệ tình cảm, Đỗ Bá C và chị Hồ Thị H (sinh năm 1987, nơi ĐKHKTT: An Truyền, P, P, tỉnh Thừa Thiên Huế) chung sống với nhau như vợ chồng tại chung cư H, A, A, Hải Phòng. Trong thời gian chung sống, do nợ nần nên C nảy sinh ý định làm giả Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất rồi lừa bán đất cho chị H để chiếm đoạt tài sản. Tháng 7/2021, C dẫn chị H đến khu vực thôn C, xã N, huyện A, thành phố Hải Phòng chỉ cho chị H 01 lô đất khoảng 100m2, nói dối là đất của C. Cẩn nói giá thị trường của lô đất trên là 1.100.000.000 đồng nhưng nếu chị H mua, C sẽ bán rẻ lại với giá 750.000.000 đồng nên chị H đồng ý. Từ tháng 7/2021 đến tháng 10/2021, chị H đã đưa cho C số tiền 100.000.000 đồng để đặt cọc mua đất. Cũng trong thời gian trên, để có giấy tờ đất đưa cho chị H, tạo niềm tin để tiếp tục chiếm đoạt tài sản, C liên hệ và thuê người có tài khoản Facebook “Ánh Mai” làm giả 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Hồ Thị H, 02 Hợp đồng công chứng chuyển nhượng đất có nội dung bên chuyển nhượng là Đỗ Bá C, bên nhận chuyển nhượng là Hồ Thị H với giá 100.000.000 đồng.

Tháng 10/2021, C đưa cho chị H xem bộ giấy tờ giả và bảo chị H ký vào Hợp đồng chuyển nhượng đất. Sau đó, C nhiều lần yêu cầu chị H chuyển trả tiền mua đất. Tổng số tiền C chiếm đoạt của chị H là 197.000.000 đồng; số tiền này C đã sử dụng vào mục đích cá nhân hết. Tháng 12/2021, C đưa cho chị H01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số T757701 mang tên Hồ Thị H cấp ngày 24/8/2021 và 01 Hợp đồng chuyển nhượng đất có nội dung bên chuyển nhượng là Đỗ Bá C bên nhận chuyển nhượng là Hồ Thị H do Văn phòng C2 (Đỗ Bá C giữ lại 01 Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất). Ngày 06/12/2022, chị H phát hiện giấy tờ C đưa là giả nên đã đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H trình báo sự việc và giao nộp hai giấy tờ trên.

Tại Bản kết luận giám định số 201/KL ngày 16/12/2022 của Giám định viên phòng K3 Công an thành phố H kết luận: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số T757701 là giả, được làm giả bằng phương pháp in màu kỹ thuật số; Hình dấu tròn có nội dung “Văn phòng công chứng Trịnh Thế 1l” không cùng nội dung trên mẫu thu của Văn phòng C2; chữ ký mang tên Công chứng viên Trịnh Thế C1 trên mẫu cần giám định so với chữ ký mang tên Trịnh Thế C1 trên mẫu so sánh không cùng một người ký ra.

Ngày 10/12/2022, Đỗ Bá C đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H đầu thú. Ban đầu, C khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nêu trên và khai tổng số tiền C chiếm đoạt của chị H là 288.000.000 đồng. Quá trình điều tra, Đỗ Bá C và chị Hồ Thị H thay đổi lời khai, xác định lại số tiền đã chiếm đoạt là 197.000.000 đồng gồm: 100.000.000 đồng đặt cọc bằng tiền mặt; 80.000.000 đồng chuyển vào tài khoản game “Nam Cường 368” của C và 17.000.000 đồng qua tài khoản ngân hàng. Riêng số tiền 100.000.000 đồng do chị H chuyển cho C vào ngày 31/12/2021, C không chiếm đoạt vì trong ngày 31/12/2021 C đã chuyển lại cho chị H. Lời khai của C phù hợp với lời khai của chị H, phù hợp với kết quả đối chứng giữa sao kê tài khoản ngân hàng của Đỗ Bá C và tài khoản ngân hàng của chị Hồ Thị H nên có căn cứ xác định trong thời gian từ tháng 7/2021 đến tháng 01/2022, C đã lừa đảo chiếm đoạt của chị H số tiền 197.000.000 đồng.

Vật chứng của vụ án: Chuyển Cục thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng: 01 điện thoại Iphone 7 màu hồng thu giữ của Đỗ Bá C. Đối với 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Hồ Thị H và 01 Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 04/7/2021 được đánh số bút lục đưa vào trong hồ sơ vụ án. Đối với 01 Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 04/7/2021 do Đỗ Bá C giữ đã làm thất lạc nên không thu hồi được.

Về trách nhiệm dân sự: Chị Hồ Thị H yêu cầu Đỗ Bá C phải bồi thường số tiền đã chiếm đoạt là 197.000.000 đồng. Hiện bị cáo C chưa bồi thường cho chị H.

Tại bản Cáo trạng số 192/CT-VKS-P3 ngày 25 tháng 8 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng truy tố Đỗ Bá C về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo điểm C khoản 2 Điều 174 và tội Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức quy định tại điểm c, d khoản 2 Điều 341 của Bộ luật Hình sự.

Trước khi xét xử, bị hại Hồ Thị H có đơn trình bày: Ngày 11/9/2023 đã nhận đủ số tiền thiệt hại là 197.000.000 đồng, không còn yêu cầu bồi thường. Đề nghị Tòa án xem xét giảm nhẹ mức hình phạt đối với bị cáo và đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt chị H vì lý do cá nhân, chị H không thể có mặt tại phiên toà theo giấy triệu tập của Tòa án.

Tại phiên tòa sơ thm, Bị cáo Đỗ Bá C khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng đà truy tố. Do cần tiền để sử dụng vào mục đích cá nhân bị cáo đã thuê người trên mạng Internet làm giả Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số T757701 và Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 04/7/2021 đồng thời đưa thông tin không có thật về việc bị cáo có thửa đất cần bán để chị H tin, đồng ý mua thửa đất, mục đích để chiếm đoạt số tiền của chị H trong khoảng thời gian từ tháng 7 năm 2021 đến tháng 01 năm 2022. Trước khi xét xử, bị cáo đã tác động đến gia đình để bồi thường toàn bộ số tiền đã chiếm đoạt cho chị H, khắc phục thiệt hại gây ra cho bị hại. Bị cáo rất ân hận về hành vi phạm tội của mình, đây là lần đầu tiên bị cáo phạm tội do suy nghĩ chưa thấu đáo nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức hình phạt thấp nhất.

Người bào chữa: Bị cáo phạm tội nhưng có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đã chủ động tác động gia đình khắc phục toàn bộ thiệt hại, là lần đầu phạm tội; sau khi phạm tội đã ra đầu thú, bị hại có đơn xin giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ để quyết định mức hình phạt thấp nhất đối với bị cáo.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên trình bày quan điểm luận tội: Giữ nguyên nội dung truy tố bị cáo Đỗ Bá C về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 174 của Bộ luật Hình sự và tội Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức quy định tại điểm c, d khoản 2 Điều 341 của Bộ luật Hình sự, đồng thời phân tích hành vi, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi phạm tội đã ra đầu thú, đã tác động gia đình bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bị hại trước khi xét xử, người bị hại có đơn xin giảm nhẹ mức hình phạt đối với bị cáo. Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng. Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 174 của Bộ luật hình sự; điểm c, d khoản 2 Điều 341; điểm s, b khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 55 của Bộ luật Hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo C với mức án từ 04 năm đến 05 năm tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản; 03 năm đến 04 năm tù về tội Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức; tổng hợp hình phạt chung của hai tội, buộc bị cáo phải chấp hành là 07 năm đến 09 năm tù. Về dân sự: Bị hại không còn yêu cầu nên không đặt vấn đề giải quyết. Về vật chứng: Trả lại bị cáo 01 điện thoại Iphone 7 màu hồng do không liên quan đến việc phạm tội - Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

NHẬN ĐỊNH TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố H, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

- Về tội danh, tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và nhân thân bị cáo:

[2] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với lời khai của bị hại về thời gian, địa điểm phạm tội cũng như các tình tiết khác của vụ án. Lời khai đó còn phù hợp với kết quả đối chứng giữa sao kê tài khoản ngân hàng của bị cáo và tài khoản ngân hàng của bị hại. Lời khai của bị cáo còn phù hợp với vật chứng thu giữ là Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số T 757701 ngày 24/8/2021 và Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 04/7/2021 mà bị cáo đã dùng để tạo niềm tin của chị H. Như vậy, việc truy tố của Viện Kiểm sát đối với bị cáo về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức là có căn cứ và đã có đủ cơ sở để kết luận: Do cần tiền để sử dụng vào mục đích cá nhân; lợi dụng mối quan hệ tình cảm giữa bị cáo và chị H bị cáo đã thuê người làm giả Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số T 757701 ngày 24/8/2021 và Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 04/7/2021. Sau khi có được các giấy tờ giả bị cáo đã đưa ra thông tin không có thật, gian dối về việc bị cáo có thửa đất theo thông tin ghi tại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả để chị H tin, đưa tiền cho bị cáo với số tiền chiếm đoạt là 197.000.000 đồng. Hành vi của bị cáo đã phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 174 của Bộ luật hình sự và tội Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức quy định tại điểm c, d khoản 2 Điều 341 của Bộ luật hình sự. Hành vi đó của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội vì đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an; xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính của nhà nước, của tổ chức trong lĩnh vực quản lý hành chính của nhà nước, của tổ chức trong lĩnh vực quản lý về con dấu, tài liệu nên cần phải được xử lý thỏa đáng - Điều 38, Điều 55 của Bộ luật Hình sự.

[3] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội bị cáo đã ra đầu thú, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; trước khi xét xử đã tác động gia đình bồi thường toàn bộ giá trị tài sản đã chiếm đoạt là 197.000.000 đồng cho bị hại; bị hại có đơn xin giảm nhẹ mức án đối với bị cáo - đó là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[4] Về nhân thân: Bị cáo không có tiền án, tiền sự.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về hình phạt:

[6] Từ những phân tích trên, xét tính chất vụ án, hoàn cảnh phạm tội, nhân thân bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải cách ly bị cáo với xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Ngoài hình phạt chính, bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung - phạt tiền. Xét thấy, hiện bị cáo không có việc làm, điều kiện kinh tế khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung, phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về bồi thường dân sự: Trước khi xét xử, bị cáo đã tác động gia đình để bồi thường toàn bộ giá trị thiệt hại cho bị hại - chị H. Chị H đã viết đơn xác nhận ngày 11/9/2023 đã nhận đủ số tiền 197.000.000 đồng, không còn yêu cầu bồi thường nên không đặt vấn đề giải quyết - Điều 48 của Bộ luật Hình sự, các Điều 584, 585, 586, 589 của Bộ luật Dân sự.

[8] Về tang vật vụ án: Xét thấy chiếc điện thoại Iphone 7 màu hồng thu giữ của bị cáo, không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo - Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[9] Đối với đối tượng có tài khoản Facebook “Ánh Mai” có hành vi làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức nhưng đến nay chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, khi đủ căn cứ sẽ xử lý theo quy định.

[10] Về án phí: Bị cáo Đỗ Bá C phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật - khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326.

[11] Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào đim c khoản 2 Điều 174; điểm c, d khoản 2 Điều 341; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 55 của Bộ luật Hình sự, xử:

1. Bị cáo Đỗ Bá C 03 (ba) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và 02 (hai) năm tù về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”. Tổng hợp hình phạt chung của hai tội, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 05 (năm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù kể từ ngày 11/12/2022.

Căn cứ vào Điều 48 của Bộ luật hình sự; các Điều 584, 585, 586, 589 của Bộ luật Dân sự;

2. Về bồi thường dân sự: Bị cáo Đỗ Bá C phải bồi thường cho chị Hồ Thị H số tiền là 197.000.000 đồng. Bị cáo Đỗ Bá C đã bồi thường đủ cho chị Hồ Thị H.

Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

3. Về xử lý vật chứng: Tuyên trả bị cáo Đỗ Bá C chiếc điện thoại Iphone 7 màu hồng, Imei: 3591840733707xx (đã qua sử dụng).

(Theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 30/8/2023) Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, min, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

4. Về án phí: Bị cáo Đỗ Bá C phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo Đỗ Bá C có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội.

Trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án, hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật, chị Hồ Thị H có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội.

Trường hợp Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành dân sự, sửa đổi bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 9 của Luật thi hành án dân sự được sửa đi, b sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

21
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 207/2023/HS-ST

Số hiệu:207/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về