Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 203/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 203/2023/HS-PT NGÀY 12/07/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Tòa án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 115/2023/TLPT-HS ngày 13 tháng 4 năm 2023 đối với bị cáo Nguyễn Duy V do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 20/2023/HS-ST ngày 02/3/2023 của Tòa án nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn Duy V (tên gọi khác: không), sinh năm 1977 tại Thành phố Hồ Chí Minh; thường trú: 1 H, khu phố B, phường T, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: A H, phường T, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ học vấn: 12/12; con ông Nguyễn Văn C và con bà Đoàn Thị N ; có vợ và có 04 người con (lớn nhất sinh năm 2000, nhỏ nhất sinh năm 2020); tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 16/6/2022 (có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ông Trần Ngọ c L là bạn của ông Hoàng Đức T. Ông T bị đưa đi Trung tâm cai nghiện bắt buộc tại cơ sở xã hội Thanh thiếu niên B, C, Thành phố Hồ Chí Minh. Ông L có ý định xin bảo lĩnh cho ông T về cai nghiện tại gia đình nên nhờ người giúp đỡ về mặt thủ tục theo quy định. Bà Võ Bùi Thảo Đ là bạn gái ông T. Bà Đ được L1 - bạn ngoài xã hội, không rõ lai lịch - giới thiệu Nguyễn Duy V có khả năng giúp được ông T và cho số điện thoại V để liên lạc. Bà Đ liên lạc với V nhờ giúp đỡ. Ngày 02/5/2022, bà Đ điện thoại cho V. V hẹn gặp bà Đ và ông L tại một quán cà phê - không rõ địa chỉ - ở Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh. Tại đây, ông L nhờ V làm thủ tục pháp lý để giúp T ra khỏi Trung tâm cai nghiện về cai nghiện tại gia đình. Sau khi nghe xong câu chuyện và yêu cầu của ông L thì V đã xác định: V không có khả năng thực hiện nhưng vì lúc đó không có tiền tiêu xài nên V nảy sinh ý định chiếm đoạt tiền của ông L, cụ thể: V đồng ý nhận lời giúp ông L đưa T từ Trung tâm cai nghiện về nhà với tổng số tiền là 50.000.000 đồng và khi xong việc ông L phải đưa thêm 5.000.000 đồng, tổng cộng là 55.000.000 đồng. V dùng lời nói làm cho ông L hoàn toàn tin tưởng L làm được việc và hứa đến ngày 13/5/2022 sẽ đưa T về nhà. Ngay sau đó, V và ông L, bà Đ đến “Quán ăn 30” tại địa chỉ G H, phường P, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh ăn uống. Tại đây, ông L đưa V căn cước công dân của ông L để V làm thủ tục và đưa số tiền tạm ứng trước là 10.000.000 đồng. Sau đó, ông L cùng bà Đ đi về, hẹn số tiền còn lại chuyển khoản sau.

Ngày 04/5/2022, V yêu cầu ông L chuyển tiếp số tiền 30.000.000 đồng để lo việc. Để tránh việc ông L biết rõ về nhân thân địa chỉ của mình, nên V đã đến tiệm cầm đồ “Uy tính 36” tại địa chỉ D H, phường T, Quận G thuê số tài khoản 11273847 mở tại Ngân hàng Á, tên “Hoang Kim N1” là của bà Hoàng Kim N2, chủ tiệ m C1 và gửi số tài khoản này cho ông L để ông L chuyển tiền vào đó. Ông L sử dụng tài khoản số 0972135776 mở tại ngân hàng C2 (V1) chuyển 30.000.000 đồng đến số tài khoản 11273847 mở tại ngân hàng Á (A), tên “Hoang Kim N1”.

Đến ngày 06/5/2022, V tiếp tục yêu cầu ông L chuyển 15.000.000 đồng, nhưng ông L chỉ chuyển khoản 10.000.000 đồng. Ngày 10/5/2022, V tiếp tục yêu cầu ông L chuyển 5.000.000 đồng, hứa đến ngày 13/5/2022 sẽ đưa được T về. Ông L tiếp tục chuyển khoản 5.000.000 đồng. Sau đó, V tắt điện thoại, không liên lạc với ông L, chiếm đoạt số tiền 55.000.000 đồng, tiêu xài cá nhân hết.

Ngày 24/5/2022, ông L không liên lạc được với V nên đến Công an phường L, Thành phố T trình báo. Ngày 14/6/2022, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố T truy xét đưa Nguyễn Duy V về trụ sở làm việc, V khai nhận hành vi phạm tội của mình. Ngày 15/6/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố T chuyển hồ sơ vụ việc đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Q để giải quyết theo thẩm quyền.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 20/2023/HS-ST ngày 02/3/2023 của Tòa án nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017: xử phạt bị cáo Nguyễn Duy V 02 (hai) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.Thời hạn tù tính ngày bắt bị cáo để chấp hành án.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên xử về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 05/3/2023 bị cáo Nguyễn Duy V kháng cáo xem xét lại toàn bộ các tình tiết, chứng cứ vụ án để tuyên bản án thấu tình đạt lý.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với bản án sơ thẩm đã nêu và thay đổi nội dung kháng cáo xin được hưởng án treo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi phân tích tính chất mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ nhận định án sở thẩm đã xét xử đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không cung cấp được tài liệu, chứng cứ mới để xem xét cho bị cáo hưởng án treo. Đồng thời trong vụ án này bị cáo nhiều lần thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản, cấp sơ thẩm không áp dụng tình tiết tăng nặng đối với bị cáo là có thiếu sót. Do không có kháng nghị và kháng cáo về nội dung này nên Viện Kiểm sát Thành phố Hồ Chí Minh không đề nghị áp dụng tình tiết tăng nặng phạm tội 02 lần trở lên đối với bị cáo. Tuy nhiên cũng cần cân nhắc tình tiết này khi lượng hình đối với bị cáo. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 355, Điều 356, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Bị cáo không tranh luận.

Bị cáo nói lời sau cùng: xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về hình thức: Sau khi xét xử sơ thẩm đến ngày 05/3/2023, bị cáo Nguyễn Duy V có đơn kháng cáo đề nghị xem xét lại toàn bộ bản án sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo thay đổi nội dung kháng cáo xin được hưởng án treo. Xét kháng cáo được làm trong thời hạn luật định và việc thay đổi nội dung kháng cáo là hợp lệ, cần chấp nhận để xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Về nội dung vụ án: Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm cũng như phiên tòa phúc thẩm có đủ cơ sở để xác định:

Ông Trần Ngọ c L là bạn của ông Hoàng Đức T. Ông T bị đưa đi Trung tâm cai nghiện bắt buộc tại cơ sở xã hội Thanh thiếu niên B, C, Thành phố Hồ Chí Minh. Mặc dù không hiểu biết các quy định của pháp luật về thủ cai nghiện tại gia đình và cũng không quen biết cá nhân nào có thẩm quyền tại cơ sở xã hội Thanh thiếu niên B, C, Thành phố Hồ Chí Minh nhưng Nguyễn Duy V đưa ra những thông tin gian đối, không đúng sự thật, hứa hẹn sẽ làm thủ tục để đưa ông T về cai nghiện tại gia đình. Ông L đã giao cho V số tiền 55.000.000 đồng, sau đó V tắt điện thoại, không liên lạc với ông L, chiếm đoạt số tiền 55.000.000 đồng, tiêu xài cá nhân hết.

Với hành vi nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Nguyễn Duy V về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội, không oan sai.

Về mức hình phạt: Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ như bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã khắc phục, trả lại số tiền chiếm đoạt cho bị hại theo quy định tại điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo 02 năm tù là thỏa đáng, tương xứng với tính chất, mức độ và hậu quả phạm tội do bị cáo gây ra. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới để Hội đồng xét xử xem xét. Do đó, với tính chất, mức độ nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo là tương xứng nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[3] Lập luận trên đây cũng là căn cứ để chấp nhận một phần lời đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tại phiên tòa.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Duy V . Giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 20/2023/HS-ST ngày 02/3/2023 của Tòa án nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh.

Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017: Xử phạt bị cáo Nguyễn Duy V 02 (hai) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.Thời hạn tù tính ngày bắt bị cáo để chấp hành án.

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Các Quyết định khác của bản án sơ thẩm về các vấn đề không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

11
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 203/2023/HS-PT

Số hiệu:203/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:12/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về