Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 20/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÓC SƠN – THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 20/2023/HS-ST NGÀY 15/02/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 02 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 235/2022/TLST-HS ngày 21 tháng 11 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 243/2022/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 12 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Hà Văn H (tên gọi khác: P), sinh năm 1979 tại Phú T; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Khu x, xã Lam S, huyện Tam N, tỉnh Phú T; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: Lớp 06/12; Con ông Hà Văn X (chết) và bà Nguyễn Thị P; Vợ, con: Chưa; Tiền án:

- Bản án hình sự số: XX/2016/HSST ngày 24/5/2016, Tòa án nhân dân huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ xử phạt 60 tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”.

- Bản án hình sự số: XXX/2022/HSST ngày 31/8/2022, Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ xử phạt 04 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Tiền sự: không;

Nhân thân:

- Ngày 21/5/2003, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Thọ ra Quyết định số: XXXX/QĐ-UB áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào Trường giáo dưỡng, thời hạn 24 tháng;

- Bản án hình sự số: XX/HS-ST ngày 22/4/1994, Tòa án quân sự Khu vực 2, Quân khu 2 xử phạt 20 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Chiếm đoạt, mua bán trái phép vũ khí quân dụng”;

- Bản án hình sự số: XX/HS-ST ngày 28/9/1996, Tòa án nhân dân huyện Tam T, tỉnh Vĩnh Phú (nay là huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ) xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản của công dân”. Tổng hợp hình phạt của Bản án hình sự số: XX/HS-ST ngày 22/4/1994, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho 02 bản án là 26 tháng tù;

- Bản án hình sự số: XX/HS-ST ngày 28/12/1999, Tòa án nhân dân huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ xử phạt 42 tháng tù về tội “Cướp tài sản của công dân”;

- Bản án hình sự số: XX/2005/HS-ST ngày 27/12/2005, Tòa án nhân dân huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ xử phạt 54 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”;

- Bản án hình sự số: XX/2008/HSST ngày 26/02/2008, Tòa án nhân dân huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ xử phạt 60 tháng tù về tội “Trốn khỏi nơi giam”. Tổng hợp hình phạt của Bản án hình sự số XX/2005/HSST ngày 27/12/2005, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 07 năm 02 tháng 19 ngày.

Hiện bị cáo đang chấp hành án án tại Trại giam Vĩnh Quang, Bộ Công an theo Bản án hình sự số: XXX/2022/HS-ST ngày 31/8/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ;

Có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1978; Nơi cư trú: Thôn Lai S, xã Bắc S, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội (vắng mặt);

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Chị Đặng Thị Tuyết T, sinh năm 1980; Nơi cư trú: Thôn Nam L, xã Bắc S, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Thông qua chị Đặng Thị Tuyết T, Hà Văn H làm quen với chị Nguyễn Thị T. Đến khoảng đầu tháng 11/2021, H thường xuyên gọi điện thoại, nhắn tin hỏi thăm chị T nên biết chị T có ý định mua xe máy và đã tiết kiệm được số tiền khoảng 6.000.000 đồng, H nảy sinh ý định chiếm đoạt số tiền tiết kiệm của chị T. Sau đó, H hứa hẹn cho chị T vay số tiền còn thiếu để mua xe và sẽ nhận con trai chị T vào làm việc tại cửa hàng cầm đồ của H tại huyện Đông Anh để trừ nợ dần, chị T đồng ý. S ngày 27/11/2021, H thuê xe taxi đi đón chị T tại khu nhà trọ thuộc địa phận thành phố Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên rồi đưa đến Cửa hàng xe máy Đạt Thắng ở tổ 5, thị trấn Sóc Sơn, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội để mua xe máy. Tại đây, chị T chọn được 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Vision màu đỏ nâu trị giá 35.300.000 đồng. H bảo chị T đi rút 6.000.000 đồng trong tài khoản đưa cho H, số tiền còn thiếu H sẽ cho vay và T toán với nhân viên của cửa hàng. Nghe lời H, chị T đi rút số tiền 6.000.000 đồng và đưa cho H, H cầm tiền rồi giả vờ ra ngoài nghe điện thoại, sau đó bắt xe taxi xuống khu vực nội thành Hà Nội, chị T gọi điện thoại cho H nhiều lần nhưng không liên lạc được. Số tiền chiếm đoạt của chị T, H chi tiêu cá nhân hết.

Bản cáo trạng số: 217/CT-VKS ngày 16/11/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sóc Sơn truy tố bị cáo Hà Văn H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng và khai: Sau khi chiếm đoạt 6.000.000 đồng của chị T, bị cáo đi xuống Hà Nội và chi tiêu cá nhân hết. Sau đó, bị cáo vay của chị T 6.000.000 đồng để bồi thường cho chị T. Việc bị cáo vay tiền chị T, bị cáo sẽ tự giải quyết và không yêu cầu Tòa án giải quyết, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

* Người bị hại là chị Nguyễn Thị T vắng mặt tại phiên tòa nhưng lời khai có trong hồ sơ thể hiện (bút lục số 44-45): Chị và chị Đặng Thị Tuyết T là bạn thân với nhau, qua chị T, chị quen Hà Văn H. Sau đó H thường xuyên gọi điện nói chuyện, hỏi thăm nên biết chị có 6.000.000 đồng tiết kiệm, H ngỏ ý muốn giúp chị mua xe máy để tiện đi lại và nhận con trai chị vào làm tại Hiệu cầm đồ của H ở Đông Anh. S ngày 27/11/2021, H đi xe taxi đến khu nhà trọ đón chị rồi đưa đến Cửa hàng xe máy Đạt Thắng ở tổ 5, thị trấn Sóc Sơn, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội để mua xe máy. Đến quán, xe taxi đợi ở ngoài, chị và H vào Cửa hàng chọn mua 01 xe máy nhãn hiệu Honda Vision màu đỏ nâu trị giá 35.300.000 đồng. Sau đó, H bảo nhân viên cho số tài khoản của Cửa hàng và bảo chị đi rút số tiền 6.000.000 đồng còn thiếu đưa cho H để làm thủ tục đăng ký xe. Sau đó, chị đã rút 6.000.000 đồng đưa cho H, H cầm tiền rồi lên xe taxi đi luôn, chị gọi điện nhưng số bị chặn, không liên lạc được nên chị đã trình báo Công an. Khoảng 13h ngày 20/12/2021, chị T nói H đã chuyển khoản trả tiền cho chị qua tài khoản của chị T, chị T đã rút trả chị 6.000.000 đồng. Nay chị không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm về dân sự và đề nghị xử lý nghiêm hành vi của H theo quy định của pháp luật.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị Đặng Thị Tuyết T trình bày: Khoảng năm 2001, chị quen biết Hà Văn H khi H làm đường thuộc địa phận Lai Sơn, xã Bắc Sơn, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội. Sau khi làm xong, hai bên không liên lạc gì với nhau. Đến cuối tháng 11/2021, H liên lạc lại và xin số điện thoại của chị T vì H cũng biết T. Giữa H và chị T liên lạc, trao đổi gì với nhau chị không nắm được. Ngày 27/11/2021, chị nghe chị T kể việc H lừa của chị T 6.000.000 đồng. Thấy vậy chị gọi điện bảo H trả lại tiền cho chị T nhưng H nói chưa có tiền và hỏi mượn chị 6.000.000 đồng để trả cho chị T trước, sau đó sẽ chuyển khoản trả chị nhưng đến nay H vẫn chưa trả tiền cho chị. Việc chị cho H mượn tiền là tự nguyện, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết về vấn đề này.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Sóc Sơn phát biểu luận tội:

Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, cùng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sóc Sơn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm d khoản 2 Điều 174; điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 56 và Điều 38 Bộ luật hình sự:

- Xử phạt Hà Văn H mức án từ 30 tháng đến 36 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tổng hợp hình phạt 04 năm tù theo Bản án hình sự số: 109/2022/HS-ST ngày 31/8/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của 02 bản án với mức án từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17/4/2022.

- Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Chị T đã nhận được số tiền 6.000.000 đồng và không yêu cầu gì về dân sự; chị T không yêu Tòa án giải quyết về số tiền 6.000.000 đồng nên không đặt ra giải quyết.

- Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

- Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Sóc Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sóc Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận:

Do biết chị Nguyễn Thị T tiết kiện được 6.000.000 đồng để mua xe máy nên Hà Văn H nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản. H hứa hẹn cho chị T mượn số tiền còn thiếu để mua xe máy làm phương tiện đi lại. S ngày 27/11/2021, Hà Văn H đưa chị T đến Cửa hàng xe máy Đạt Thắng ở tổ 5, thị trấn Sóc Sơn, huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội chọn mua 01 xe máy nhãn hiệu Honda Vision màu đỏ nâu trị giá 35.300.000 đồng. Sau đó, H yêu cầu chị T đưa cho H số tiền 6.000.000 đồng để T toán rồi lên xe taxi bỏ đi. Số tiền này H chi tiêu cá nhân hết.

Tại Bản án hình sự số: 04/2008/HSST ngày 26/02/2008, Tòa án nhân dân huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ đã xác định bị cáo phạm tội thuộc trường hợp “Tái phạm nguy hiểm”, ngày 03/3/2015 bị cáo chấp hành xong hình phạt tù. Tuy nhiên Bản án số: 32/2016/HSST ngày 24/5/2016 của Tòa án nhân dân huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ không xác định bị cáo “Tái phạm nguy hiểm” là thiếu sót. Vì vậy hành vi lần này của bị cáo đã cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” với tình tiết định khung “Tái phạm nguy hiểm”, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sóc Sơn truy tố bị cáo theo điểm d khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự là có căn cứ.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an xã hội. Do đó, việc đưa bị cáo ra truy tố, xét xử trước pháp luật là cần thiết nhằm răn đe, giáo dục bị cáo, đồng thời góp phần đấu tranh phòng chống tội phạm. Tuy nhiên cũng cần xem xét đến nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khi quyết định hình phạt.

Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, sau khi phạm tội đã bồi thường cho người bị hại nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Xét thấy, bị cáo đã có nhiều tiền án về cùng nhóm tội xâm phạm sở hữu nhưng không chịu sửa chữa, lại tiếp tục phạm tội về cùng loại tội thể hiện bản chất ham chơi, lười lao động, coi thường pháp luật. Vì vậy Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo và góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm.

[4] Về tổng hợp hình phạt: Theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Bộ luật hình sự cần phải tổng hợp hình phạt với Bản án hình sự số: 109/2022/HSST ngày 31/8/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ đã có hiệu lực pháp luật.

[5] Về hình phạt bổ sung: Khoản 5 Điều 174 Bộ luật hình sự quy định hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với người phạm tội. Xét thấy bị cáo làm nghề tự do, thu nhập không ổn định nên không áp dụng.

[6] Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Chị T đã nhận lại tiền và không yêu cầu bồi thường gì thêm về dân sự; chị T không yêu Tòa án giải quyết về số tiền 6.000.000 đồng cho bị cáo vay để bồi thường cho chị T nên ghi nhận.

[7] Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng á n phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 174; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 38; khoản 1 Điều 56 Bộ luật hình sự:

Xử phạt Hà Văn H 03 (ba) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tổng hợp hình phạt 04 (bốn) năm tù theo Bản án hình sự số: 109/2022/HS-ST ngày 31/8/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 07 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17/4/2022.

Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Ghi nhận sự thỏa thuận bồi thường xong về dân sự giữa bị cáo và người bị hại. Ghi nhận sự tự nguyện của chị T không yêu Tòa án giải quyết về số tiền 6.000.000 đồng.

Căn cứ khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự;

điểm a, c khoản 1 Điều 23, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

145
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 20/2023/HS-ST

Số hiệu:20/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sóc Sơn - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về