TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 201/2022/HS-PT NGÀY 30/08/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 30 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 178/2022/TLPT-HS, ngày 12/7/2022 đối với bị cáo Phạm Đức T, về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 149/2022/HS-ST ngày 03/6/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
Bị cáo có kháng cáo:
Họ và tên: Phạm Đức T (tên gọi khác Phạm Đức T1), sinh ngày 13/11/1965; tại Thái Bình; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú hiện nay: A Nguyễn Lương B, tổ dân phố B, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Buôn bán; con ông Phạm Đức T2, sinh năm 1938; Con bà Phạm Thị T3 (đã chết); vợ Nguyễn Thị H, sinh năm 1972; bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 1991; con nhỏ sinh năm 2011. Hiện vợ con trú tại: Số A Nguyễn Lương B, tổ dân phố B, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.
Tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân:
Bản án số 20/1991/HSST ngày 03/01/1991, Tòa án nhân dân huyện Krông Ana, tỉnh Đắk Lắk, xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản công dân” Bản án số 81/1991/HSST ngày 14/12/1991, Tòa án nhân dân thị xã Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, xử phạt 06 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản công dân”.
Bản án số 124/1997/HSST ngày 25/6/1997, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xử phạt 06 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản công dân” Bản án số 175/2003/HSST ngày 23/5/2003, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, xử phạt 07 năm tù về tội “Lưu hành tiền giả”. Bị cáo kháng cáo, Bản án số 861/2003/HSPT ngày 30/9/2003 Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng phạt 07 năm tù về tội “Lưu hành tiền giả”.
Bản án số 236/2009/HSST ngày 09/7/2009, Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột xử phạt 02 năm tù về tội “Đánh bạc”. Bị cáo kháng cáo, Bản án số 284/2009/HSPT ngày 17/9/2009 Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Đánh bạc”.
Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 15/12/2021 cho đến nay. Bị cáo tại ngoại, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng tháng 03/2021, Phạm Đức T đi ăn sáng tại đường L, thành phố B, thì gặp ông Lê Ngọc L, qua nói chuyện thì T nói dối mình tên là T2, là cán bộ Quân đội thuộc Quân khu 5 công tác tại thành phố Đà Nẵng, hiện đang vào tỉnh Đắk Lắk để công tác. Lúc này, ông L nói có người con trai mới tốt nghiệp trường Đại học Kiểm sát, đang có nhu cầu xin việc thì T nói dối “có quen biết nhiều người trong ngành Quân đội, nếu có nhu cầu xin cho cháu vào ngành Quân đội thì T giúp cho”, nghe vậy ông L tin tưởng xin số điện thoại của T, rồi đi về. Sau đó, ông L gọi điện thoại cho T nói muốn xin cho con vào ngành Quân đội thì T đồng ý và nói phải chuẩn bị hồ sơ và tiền để đặt cọc trước. Đến ngày 08/4/2021, T gọi điện thoại cho ông L hẹn gặp tại quán cà phê V, đường M, phường T, thành phố B. Khoảng 20 giờ cùng ngày T đi đến quán cà phê V gặp ông L và con trai là anh L. Tại đây, T nói dối và tự giới thiệu mình là Trưởng phòng Quân lực quân khu 5, có quen biết nhiều người, để T liên hệ xin cho con ông L được tuyển vào ngành Quân đội, sau đó xin qua bộ phận kiểm sát Quân đội, nếu không được thì xin vào Viện kiểm sát tỉnh Đắk Nông rồi chuyển về tỉnh Đắk Lắk. Quá trình nói chuyện T kể nhiều nội dung liên quan đến ngành Quân đội nên ông L tin tưởng T có khả năng xin việc cho con trai ông L nên đã giao số tiền 10.000.000 đồng cùng 01 hồ sơ xin việc của anh Lê Quang Đ cho T rồi ra về. Sau đó T sử dụng số tiền 10.000.000 đồng của ông L tiêu xài cá nhân hết, hồ sơ thì T đem về nhà cất giữ chứ không gửi cho Cơ quan hay cá nhân nào để xin việc cho con trai của ông L như đã hứa hẹn. Sau đó, ông L nhiều lần gọi điện thoại hỏi và tìm hiểu được T không phải cán bộ quân đội như đã giới thiệu và không phải sinh sống ở thành phố Đà Nẵng mà sống tại thành phố Buôn Ma Thuột, biết bị lừa đảo nên đã làm đơn tố cáo Phạm Đức T đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột .
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 149/2022/HS-ST ngày 03/6/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Phạm Đức T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
- Áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS; Xử phạt bị cáo Phạm Đức T 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt thi hành án.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 14/6/2022 bị cáo Phạm Đức T có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo thay đổi nội dung kháng cáo chỉ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và khai nhận toàn bộ hành vi mà bị cáo đã thực hiện đúng như nội dung vụ án đã được tóm tắt nêu trên.
Quá trình tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Bản án sơ thẩm xử phạt bị cáo mức hình phạt 15 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 của BLHS và đã xem xét áp dụng đúng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS. Tại cấp phúc thẩm bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giãm nhẹ nào mới. Do đó, đề nghị HĐXX không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, cần giữ nguyên mức hình phạt của bản án sơ thẩm Bị cáo không tranh luận gì thêm, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn kháng cáo giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra và kết quả tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm là phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với lời khai của bị hại và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận: Do có ý thức coi thường pháp luật, coi thường quyền sở hữu tài sản của người khác nên vào khoảng tháng 04/2021, bị cáo Phạm Đức T đã đưa ra thông tin gian dối là có khả năng xin cho con trai của ông Lê Ngọc L được tuyển vào ngành quân đội và ngành kiểm sát, đồng thời chiếm đoạt của ông Lê Ngọc L số tiền 10.000.000 đồng. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Phạm Đức T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[2] Xét kháng cáo của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy:
Xét mức hình phạt 15 tháng tù mà Bản án sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo Phạm Đức T là nghiêm khắc. Bỡi lẽ, số tiền bị cáo chiếm đoạt 10.000.000 đồng của ông Lê Ngọc L không lớn, đã tự nguyện khắc phục hậu quả, trả lại cho bị hại toàn bộ số tiền chiếm đoạt, được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt; Sau khi phạm tội, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; gia đình bị cáo có công với cách mạng. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa phúc thẩm, mặc dù bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới, tuy nhiên, mức hình phạt trên là nghiêm khắc, chưa phù hợp tính chất, mức độ và hậu quả do hành vi phạm tội bị cáo gây ra. Do đó cần chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa Bản án sơ thẩm theo hướng giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.
[3] Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên Hội đồng xét xử không xem xét và đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
[1] Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự.
Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Đức T (Phạm Đức T2) - Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 149/2022/HS-ST ngày 03/6/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
[2] Về hình phạt:
- Áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 Xử phạt bị cáo Phạm Đức T (Phạm Đức T1) 09 (Chín) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt thi hành án.
[3] Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo Phạm Đức T (Phạm Đức T1) không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm, không có kháng cáo, kháng nghị, đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án
Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 201/2022/HS-PT
Số hiệu: | 201/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/08/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về