Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 19/2024/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 19/2024/HS-PT NGÀY 11/01/2024 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 11 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 1364/2023/TLPT-HS ngày 17 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo Bùi Văn N do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 226/2023/HS-ST ngày 29 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố H.

* Bị cáo có kháng cáo:

Bùi Văn N, sinh năm 1983 tại H; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 08A/62 P, phường Đ 1, quận H1, thành phố H; nơi ở: Số 81 K, phường V, quận L, thành phố H; nghề N: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn Đ1 (đã chết) và bà Nguyễn Thị A; có vợ là Đặng Thị T; có 02 con, con lớn sinh năm 2006; con nhỏ sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: Không; được áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo Bùi Văn N: Bà Lê Thị Hải Y, Công ty Luật TNHH L1 thuộc Đoàn Luật sư thành phố H2; có mặt.

* Người bị hại: Bà Ngô Thị C3; trú tại: Xóm 2, thôn K1, xã T1, huyện K2, thành phố H; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 16/11/2021, Lê Quang Đ2 cùng Đỗ Danh Đ3 và Đỗ Đức T2 thành lập Công ty cổ phần kinh doanh bất động sản N1 có địa chỉ: Số 73 N2, phường K3, quận L, thành phố H do Đỗ Danh Đ3 làm Giám đốc, Nguyễn Hồng N3 làm Kế toán và Lê Quang Đ2 làm Trưởng phòng pháp lý của công ty.

Khoảng tháng 01/2022, Bùi Văn N đến gặp Lê Quang Đ2 trao đổi về việc trên địa bàn huyện K2, quận Đ4… có nhiều người dân muốn chuyển đổi mục đích sử dụng đất từ đất nông N sang đất thổ cư nên nhờ Lê Quang Đ2 làm thủ tục mở Văn phòng Đ2 điện Công ty cổ phần kinh doanh bất động sản N1 tại số 130 T3, phường H3, quận Đ4, thành phố H để tạo uy tín. Mặc dù biết bản thân không có chức năng cấp trích lục bản đồ địa chính và việc trích lục bản đồ địa chính thay đổi hiện trạng thửa đất là không đúng quy định pháp luật nhưng Lê Quang Đ2 và Bùi Văn N vẫn thống nhất sẽ nhận làm trích lục bản đồ địa chính thay đổi hiện trạng thửa đất từ đất nông N sang đất trồng cây lâu năm.

Bùi Văn N và Lê Quang Đ2 bàn bạc, thỏa thuận: N có nhiệm vụ tìm người có nhu cầu làm trích lục bản đồ địa chính, còn Đ2 là người làm hồ sơ trích lục. Việc làm trích lục bằng hình thức nào là do Đ2 tự làm N không biết, N chỉ yêu cầu khi làm trích lục bản đồ địa chính phải ghi nội dung “Mục đích sử dụng đất là đất trồng cây lâu năm”. Mỗi hồ sơ N tự ấn định mức tiền sẽ thu nhưng phải chuyển cho Đ2 mỗi hồ sơ từ 12.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng. Sau khi thống nhất, N, Đ2 xuống gặp và nói với các hộ dân có nhu cầu về việc N, Đ2 có nhiều mối quan hệ với những người có thẩm quyền có thể chuyển mục đích sử dụng đất từ đất nông nghiệp sang đất ở. Tuy nhiên, muốn chuyển mục đích sử dụng đất thì trước hết phải làm trích lục bản đồ địa chính thay đổi hiện trạng thửa đất từ đất nông nghiệp trồng lúa sang đất trồng cây lâu năm, sau này có chủ trương của Nhà nước sẽ chuyển mục đích sử dụng đất trồng cây lâu năm sang đất ở. Sau đó, để có được bản đồ địa chính đưa cho các hộ dân, Đ2 thuê Nguyễn Văn H4 là nhân viên Trung tâm kỹ thuật dữ liệu thông tin thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường xuống đo đất và gửi bản vẽ cho Đ2 với giá 3.000.000 đồng/thửa. Khi được Đ2 thuê, H4 đã nhờ Đào Mạnh S sinh năm 1981 ở số 63/48 phố L2, phường Đ5, quận K4, thành phố H là nhân viên Công ty Cổ phần Tư vấn đầu tư 2 và Xây dựng giao thông công chính H xuống các hộ dân đo đất rồi gửi số liệu về cho H4 để H4 vẽ trích lục bản đồ địa chính cho Đ2.

Trong cùng thời gian trên, Đ2 thành lập Công ty TNHH Đo đạc khảo sát xây dựng H1 và nhờ Đào Đông P1 làm Giám đốc. Sau đó, Đ2 lên mạng tìm rồi liên hệ với tài khoản Z “L3” đặt làm 04 con dấu của Văn phòng đăng ký đất đai - Chi nhánh huyện K2, quận Đ4, quận D, quận H1 với giá 3.000.000 đồng/01 con dấu để làm trích lục bản đồ địa chính giả.

Với hình thức và thủ đoạn như trên trong thời gian từ tháng 2/2022 đến tháng 5/2022, Lê Quang Đ2 và Bùi Văn N đã lừa đảo chiếm đoạt tài sản của 05 người cụ thể như sau:

- Bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1965, trú tại: tổ dân phố Q, phường H3, quận Đ4, thành phố H 55.000.000 đồng (làm trích lục mang tên Nguyễn Văn C1, Nguyễn Thị C2).

- Bà Ngô Thị C3, sinh năm 1976, trú tại: Xóm 2, thôn K1, xã T1, huyện K2, thành phố H 420.000.000 đồng (bà C3 làm các trích lục mang tên Ngô Thị C3, Nguyễn Thị H5, Đỗ Anh T4, Lưu Quang B, Trần Thúy H6).

- Bà Ngô Thị N4, sinh năm 1982, trú tại: tổ dân phố Đ6, phường M, quận Đ4, thành phố H 55.000.000 đồng.

- Bà Nguyễn Thị H7, sinh năm 1960, trú tại: Số 81 B1, Phường 7, Quận T5, Thành Phố H8 50.000.000 đồng.

- Ông Đỗ Văn T6, sinh năm 1977, trú tại: tổ dân phố N5, phường M, quận Đ4, thành phố H 25.000.000 đồng.

Đối với các bị hại nêu trên, Lê Quang Đ2 đã làm giả các trích lục bản đồ địa chính mang tên Nguyễn Văn C1, Nguyễn Thị C2, Ngô Thị C3, Lưu Quang B, Trần Thị Thúy H6, Nguyễn Thị H7, Ngô Thị N4 để đưa cho các bị hại. Về việc làm giả các giấy tờ này thì sau khi nhận được bản vẽ trích đo của thửa đất do Nguyễn Văn H4 chuyển đến, Đ2 ghi các thông tin của thửa đất, người sử dụng, loại đất... rồi ký giả chữ ký của lãnh đạo Văn Phòng đăng ký đất đai chi nhánh quận Đ4, H1, K2 là Trần Thành B2, Nguyễn Ngọc A1, Trịnh Thu H9 và đóng các con dấu giả tương ứng đã đặt mua từ trước. Sau khi làm xong, Đ2 chuyển lại cho N để N đưa cho các hộ dân. Về hành vi làm giả con dấu, tài liệu trên là do một mình Đ2 làm, N không được bàn bạc và không tham gia.

Tổng số tiền chiếm đoạt của 05 bị hại trên là 605.000.000 đồng. Số tiền này Bùi Văn N chuyển cho Lê Quang Đ2 240.000.000 đồng, còn 375.000.000 đồng N dùng để chi tiêu cá nhân. Số tiền chiếm đoạt được, Đ2 đưa cho Nguyễn 3 Hồng N3 là kế toán Công ty TNHH N1 (do Đ2 thành lập) 37.000.000 đồng quản lý, số tiền còn lại Đ2 chi tiêu vào mục đích cá nhân hết. Chị Nguyễn Hồng N3 sau khi biết số tiền Đ2 đưa là do lừa đảo đã nộp lại cho Cơ quan điều tra.

Sau khi phạm tội ngày 03/6/2023, Lê Quang Đ2, Bùi Văn N đến Cơ quan Công an quận Đ4 để đầu thú. Tại Cơ quan điều tra, Đ2 giao nộp cho Cơ quan Công an 03 con dấu giả của Văn phòng đăng ký đất đai quận Đ4, K2 và Chi cục thuế khu vực H10 – A2. Bùi Văn N giao nộp 01 trích lục bản đồ địa chính mang tên Lưu Quang B, 01 trích lục bản đồ địa chính mang tên Trần Thị Thúy H6.

Tiến hành khám xét nơi làm việc của Lê Quang Đ2 thu giữ: 42 trích lục bản đồ địa chính mang tên Ngô Thị C3; 05 trích lục bản đồ địa chính mang tên Nguyễn Văn C1.

Ngoài thực hiện hành vi phạm tội trên địa bàn quận Đ4 cùng Bùi Văn N. Lê Quang Đ2 còn làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức thực hiện 02 vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn huyện A2.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện A2, Lê Quang Đ2 giao nộp 01 con dấu khắc chữ Chi cục thuế khu vực L – D.

Vật chứng của vụ án: Chuyển Cục thi hành án dân sự thành phố H quản lý phục vụ xét xử các vật chứng gồm: Số tiền 37.800.000 đồng; 01 máy tính xách tay nhãn hiệu L4, màu trắng; 01 máy in - photo, nhãn hiệu C4, màu đen; 01 màn hình máy tính nhãn hiệu V1; 01 CPU nhãn hiệu H11 màu đen; 01 máy in nhãn hiệu C4 2900; 01 điện thoại di động I 7 màu đen; 01 điện thoại di động I 8 màu vàng; 01 điện thoại di động I 11 màu đen; 01 điện thoại di động N6 màu đen; 01 điện thoại di động S1 A90, màu trắng bạc; 01 máy tính xách tay nhãn hiệu L4, màu đen; 04 con dấu khắc chữ “VĂN PHÒNG ĐĂNG KÝ ĐẤT ĐAI - SỞ TÀI NGUYÊN MÔI TRƯỜNG TP. H * CHI NHÁNH QUẬN Đ4”; “VĂN PHÒNG ĐĂNG KÝ ĐẤT ĐAI - SỞ TÀI NGUYÊN MÔI TRƯỜNG TP. H * CHI NHÁNH HUYỆN K2”; “CHI CỤC THUẾ KHU VỰC H10 - A2”, “CHI CỤC THUẾ KHU VỰC L - D”.

Đối với con dấu có khắc chữ “VĂN PHÒNG ĐĂNG KÝ ĐẤT ĐAI - SỞ TÀI NGUYÊN MÔI TRƯỜNG TP. H * CHI NHÁNH QUẬN H1” và “VĂN PHÒNG ĐĂNG KÝ ĐẤT ĐAI - SỞ TÀI NGUYÊN MÔI TRƯỜNG TP. H * CHI NHÁNH QUẬN D”, Lê Quang Đ2 đã vứt xuống sông L5 nên Cơ quan điều tra không thu hồi được.

Đối với 60 trích lục bản đồ địa chính giả, 18 Giấy nộp tiền vào ngân sách nhà nước giả đã được đánh số bút lục đưa vào hồ sơ vụ án.

4 Đối với 01 điện thoại di động I 7 plus, 01 điện thoại di động I 6s thuộc sở hữu của chị Nguyễn Hồng N3 và anh Đào Đông P1 không liên quan đến hành vi phạm tội. Ngày 19/6/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H đã ra Quyết định xử lý trả lại cho chủ sở hữu.

Về trách nhiệm dân sự: Đối với 05 bị hại trong vụ án xảy ra tại Đ4 (do Lê Quang Đ2 và Bùi Văn N cùng đồng phạm). Quá trình điều tra các bị cáo đã bồi thường khắc phục hậu quả cho bà Ngô Thị C3 310.000.000 đồng (trong đó, Đ2 bồi thường số tiền 144.000.000 đồng, N bồi thường 166.000.000 đồng). Bùi Văn N đã bồi thường cho các bị hại: Ngô Thị N4 55.000.000 đồng, Nguyễn Thị C 55.000.000 đồng, Nguyễn Thị H7 50.000.000 đồng, Đỗ Văn T6 25.000.000 đồng. Bà Ngô Thị C3 tiếp tục yêu cầu các bị cáo phải bồi thường số tiền 110.000.000 đồng. Các bị hại Nguyễn Thị H7, Ngô Thị N4, Nguyễn Thị C, Đỗ Văn T6 đã nhận lại toàn bộ số tiền bị chiếm đoạt nên không có yêu cầu gì thêm.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 226/2023/HS-ST ngày 29/9/2023, Tòa án nhân dân thành phố H đã căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Bùi Văn N 12 (Mười hai) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn tù của bị cáo Bùi Văn N tính từ ngày bị cáo đi thi hành án. Tiếp tục áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị cáo Bùi Văn N cho đến khi bị cáo đi thi hành án.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về tội danh và hình phạt đối với bị cáo Lê Quang Đ2, trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo luật quy định.

Sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo Bùi Văn N kháng cáo đề nghị xem xét chuyển khung hình phạt thấp hơn theo điểm a khoản 3 Điều 174 Bộ luật hình sự và xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Người bị hại bà Ngô Thị C3 xác định bà đã đưa cho N 420 triệu đồng để làm trích lục cho gia đình bà, bà H7 và vợ chồng ông B. Không có việc bà cho N vay số tiền 150 triệu đồng. Sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo đã bồi thường cho bà 110 triệu đồng số tiền còn thiếu theo quyết định của bản án sơ thẩm. Đề nghị Hội đồng xét xử giảm hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo Bùi Văn N thay đổi kháng cáo, thừa nhận đã lừa đảo chiếm đoạt số tiền 605 triệu đồng như bản án sơ thẩm quy kết, bị cáo đã khắc phục toàn bộ thiệt hại. Đề nghị Hội đồng xét xử giảm hình phạt cho bị cáo.

5 Người bào chữa cho bị cáo nhất trí với ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát, đề nghị áp dụng điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật hình sự, giảm cho bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội có quan điểm thể hiện: Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo Bùi Văn N, xét xử bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 BLHS là đúng người, đúng tội. Sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo đã khắc phục toàn bộ thiệt hại. Đề nghị HĐXX chấp nhận kháng cáo, giảm một phần hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng tại cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại cấp sơ thẩm và tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội. Lời khai của bị cáo tại phiên toà phúc thẩm phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng, vật chứng thu giữ và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Lời khai của bị cáo Bùi Văn N tại giai đoạn điều tra khai phù hợp với lời khai của bị cáo Lê Quang Đ2, lời khai của các bị hại, lời khai người làm chứng và giấy trả tiền khắc phục hậu quả. Đủ cơ sở kết luận: Trong khoảng thời gian từ tháng 02/2022 đến tháng 5/2022, Lê Quang Đ2 và Bùi Văn N mặc dù không có chức năng và biết không thể chuyển mục đích sử dụng đất từ đất trồng lúa sang đất ở. Tuy nhiên, Đ2, N vẫn đưa ra các thông tin gian dối để các bị hại tin tưởng bản thân các bị cáo có thể làm môi giới chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp trồng lúa sang đất thổ cư từ đó chiếm đoạt tiền của các bị hại Ngô Thị C3 420.000.000 đồng, Ngô Thị N4 55.000.000 đồng, Nguyễn Thị C 55.000.000 đồng, Nguyễn Thị H7 50.000.000 đồng, Đỗ Văn T6 25.000.000 đồng. Tổng số tiền Lê Quang Đ2, Bùi Văn N lừa đảo chiếm đoạt của 05 người là 605.000.000 đồng.

6 Bởi hành vi nêu trên, Bùi Văn N đã bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự là có căn cứ.

[3]. Xét kháng cáo của bị cáo Hội đồng xét xử thấy:

Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây bức xúc và tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân.

Khi quyết định hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét: Bị cáo Bùi Văn N mặc dù tại phiên tòa chỉ thừa nhận một phần hành vi phạm tội nhưng đã áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo. Bị cáo đã khắc phục một phần hậu quả bồi thường thiệt hại, sau khi phạm tội ra đầu thú nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để quyết định xử phạt bị cáo 12 năm tù là phù hợp.

Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo đã trả cho người bị hại toàn bộ số tiền đã chiếm đoạt và khắc phục cả phần của bị cáo đồng phạm Lê Quang Đ2 chiếm đoạt. Người bị hại bà Ngô Thị C3 tiếp tục đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Xét thấy tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã khắc phục bồi thường toàn bộ thiệt hại cho người bị hại. Do đó có căn cứ áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự và áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là phù hợp.

Về án phí phúc thẩm: Bị cáo kháng cáo được chấp nhận nên không phải chịu án phí phúc thẩm hình sự.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, Căn cứ Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

QUYẾT ĐỊNH

1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Bùi Văn N; Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 226/2023/HS-ST ngày 29/9/2023 của Tòa án nhân dân thành phố H. Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 38; Điều 54, Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: bị cáo Bùi Văn N 10 (mười) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.

Ghi nhận bị cáo Bùi Văn N đã bồi thường cho bà Ngô Thị C3 số tiền 110.000.000 đồng (một trăm mười triệu đồng).

2. Về án phí: Bị cáo Bùi Văn N không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật ngay sau khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

19
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 19/2024/HS-PT

Số hiệu:19/2024/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về