Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 183/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 183/2022/HS-PT NGÀY 13/04/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 847/2019/TLPT-HS ngày 25/12/2019, đối với bị cáo NTT, do có kháng cáo của những người bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 68/2019/HS-ST ngày 14/11/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 93/2022/QĐPT-HS ngày 14 tháng 3 năm 2022.

- Bị cáo bị kháng cáo: NTT, sinh năm 1980 tại thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang; Nơi cư trú: 60 N, khu phố B, phường AB, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ văn hoá: 8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: nữ; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn X và bà Trần Thị P; Tiền án: không; Tiền sự: không; Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 14/3/2019 và bị tạm giam cho đến nay (có mặt tại phiên tòa).

Người bào chữa chỉ định cho bị cáo: Ông Huỳnh Phương C, là Luật sư của Văn phòng Luật sư Phạm VC, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Kiên Giang (có mặt).

- Người bị hại có kháng cáo:

1. Bà LVTN, sinh năm 1957; Địa chỉ: P8-05 B, phường AH, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang (có mặt).

2. Ông NVP (Mang), sinh năm 1982; Nơi ĐKTT: Ấp P, xã T, huyện Vĩnh Thạnh, thành phố Cần Thơ; Chỗ ở: Số 798 Đ, khu phố V, phường H, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang (có mặt vợ ông Ph là bà Nguyễn Nhật Hu).

3. Bà LTTV, sinh năm 1973; Địa chỉ: 1109 LQK, khu phố 7, phường AH, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang (có mặt).

4. Bà HMĐ, sinh năm 1976; Nơi ĐKTT: 26 N, khu phố B, phường AB, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang; Chỗ ở: 28/1A N, khu phố B, phường AB, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang (có mặt).

5. Bà NTH, sinh năm 1976; Địa chỉ: 858/16B NTT, phu phố 3, phường AH, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang (có mặt).

6. Bà ĐTG, sinh năm 1942; Địa chỉ: 40/13 LQĐ, phường AB, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang (có mặt).

7. Bà BTL, sinh năm 1979; Địa chỉ: 61 N, khu phố B, phường AB, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang (có mặt).

8. Bà NTTh, sinh năm 1975; Địa chỉ: 41/17 N, khu phố B, phường AB, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang (có mặt).

- Người bị hại không kháng cáo:

1. Ông TTT, sinh năm 1984; Nơi ĐKTT: Ấp Ninh Định, xã Ninh Hòa, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu; Chỗ ở: 160 Quang Trung, khu phố 2, phường Vĩnh Quang, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang (vắng mặt).

2. Ông TVH, sinh năm 1973; Địa chỉ: 90 N, khu phố B, phường AB, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang (vắng mặt).

3. Bà VTB, sinh năm 1978; Địa chỉ: 60/3c N, khu phố B, phường AB, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang (vắng mặt).

4. Bà TTV, sinh năm 1975; Địa chỉ: 1098 NTT, phường AB, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang (vắng mặt).

5. Bà LTP, sinh năm 1972; Địa chỉ: 32/1 N, khu phố B, phường AB, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang (vắng mặt).

6. Bà PTHN, sinh năm 1978; Địa chỉ: 40A N, khu phố B, phường AB, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang (vắng mặt).

7. Bà TLDH, sinh năm 1981; Địa chỉ: 742 Ba Tháng Hai, phường VL, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang (vắng mặt).

8. Bà LTHD, sinh năm 1985; Địa chỉ: 28/4 N, khu phố B, phường AB, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang (vắng mặt).

9. Bà NTNg, sinh năm 1956; Địa chỉ: 32A N, khu phố B, phường AB, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang (vắng mặt).

10. Bà TLV, sinh năm 1982; Địa chỉ: 267 LQĐ, khu phố D, phường AB, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang (vắng mặt).

11. Bà PHM, sinh năm 1956; Địa chỉ: 26 N, khu phố B, phường AB, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang (vắng mặt).

12. Ông ĐTS, sinh năm 1989; Địa chỉ: 60/4 N, khu phố B, phường AB, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang (vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông THL, sinh năm 1967

2. Bà NTP, sinh năm 1971

Cùng địa chỉ: 55/5 AN, phường VL, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang (vắng mặt).

3. Bà LTTh, sinh năm 1989; Địa chỉ: 41/6/2 N, khu phố B, phường AB, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang (vắng mặt).

4. Ông THM, sinh năm 1987; Địa chỉ: 102 ấp HL, xã TQ, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang (vắng mặt).

5. Bà LXT, sinh năm 1982; Địa chỉ: 60/18A N, khu phố B, phường AB, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang (vắng mặt).

6. Bà NTĐ, sinh năm 1982; Địa chỉ: 60B N, khu phố B, phường AB, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang (vắng mặt).

7. Bà TTBT, sinh năm 1988; Địa chỉ: 415 NCT, phường RS, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang (vắng mặt).

8. Ông THG, sinh năm 1980; Địa chỉ: 60D N, khu phố B, phường AB, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang (vắng mặt).

9. Bà ĐTT (Dì 3 Cao), sinh năm 1954; Địa chỉ: 60/2 N, khu phố B, phường AB, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang (vắng mặt).

10. Ông NTrNg, sinh năm 1969; Địa chỉ: 43 N, khu phố B, phường AB, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang (vắng mặt).

11. Bà NTH, sinh năm 1978; Địa chỉ: 60D N, khu phố B, phường AB, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang (vắng mặt).

12. Bà NPD, sinh năm 1986; Địa chỉ: 41/6/2 N, khu phố B, phường AB, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang (vắng mặt).

13. Bà TTT, sinh năm 1977; Địa chỉ: 135 N, khu phố B, phường AB, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang (vắng mặt).

14. Bà NTHNh, sinh năm 1985; Địa chỉ: Lô 9, Căn 10 PTR, khu phố C, phường AH, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang (vắng mặt).

15. Ông TTB, sinh năm 1978; Địa chỉ: 60 N, khu phố B, phường AB, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang (vắng mặt).

16. Bà BTT, sinh năm 1969; Địa chỉ: 858A NTT, khu phố D, phường AH, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang (vắng mặt).

17. Bà ĐTNg (Ba Q), sinh năm 1959; Địa chỉ: 14 N, khu phố B, phường AB, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang (vắng mặt).

18. Bà BTKD, sinh năm 1980; Địa chỉ: 53 S, khu phố B, phường AB, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang (vắng mặt).

19. Bà TTO, sinh năm 1968; Địa chỉ: 51 S, phường AB, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang (vắng mặt).

20. Bà LHMK, sinh năm 1980; Địa chỉ: 2012 ấp PH, xã MT B, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

NTT bắt đầu làm chủ hụi từ năm 2011. Do làm chủ hụi nhiều năm nên NTT huy động được nhiều hụi viên tin tưởng tham gia chơi. Đến năm 2014, NTT đã lập ra tổng cộng 14 dây hụi. Trong thời gian làm chủ hụi một số hụi viên hốt hụi, nhưng không đóng lại tiền hụi chết. Do sợ mất uy tín, để có tiền tiếp tục duy trì hoạt động các dây hụi và để có tiền tiêu xài cá nhân, nên từ năm 2014 đến tháng 03/2018 NTT nảy sinh ý định gian dối chiếm đoạt tiền của các hụi viên, bằng cách lấy tên hụi viên tham gia chơi hụi để hốt hụi, tự ý mua bán hụi để tràn lấp qua các dây hụi trước đó, dẫn đến mất khả năng chi trả. Đến ngày 28/3/2018, NTT tuyên bố bể hụi, khi tuyên bố bể hụi, NTT còn 05 dây hụi chưa mãn. Cụ thể: 01 dây hụi tháng 5.000.000 đồng, 02 dây hụi nửa tháng 3.000.000 đồng, 01 dây hụi 10 ngày 2.000.000 đồng và 01 dây hụi tuần 1.000.000 đồng. Thời gian xổ hụi do NTT ấn định ngày trong tuần hoặc trong tháng; địa điểm xổ hụi tại nhà NTT ở 60 N, khu phố B, phường AB, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang. Hình thức xổ hụi khi hụi viên có yêu cầu hốt hụi thì trực tiếp đến nhà NTT bỏ thăm ghi số tiền vào giấy hoặc phiếu đưa cho NTT, nếu trường hợp hụi viên không đến được thì thông báo cho NTT trước nói số tiền bỏ thăm là bao nhiêu, hụi viên nào bỏ thăm số tiền cao nhất thì sẽ được hốt hụi.

Bằng thủ đoạn trên NTT đã thực hiện hành vi “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” của các hụi viên trong 03 dây hụi. Cụ thể như sau:

Dây hụi thứ 1: Loại hụi 5.000.000 đồng, hụi tháng áp ngày 19/4/2017 âm lịch (nhằm ngày 14/5/2017 dương lịch) hụi này 01 tháng xổ 01 lần vào ngày 19 âm lịch hàng tháng. Dây hụi này có 16 người tham gia 19 phần (chân); hụi xổ được 13 lần, còn 06 lần chưa xổ. Cụ thể như sau:

1. LVTN: 01 phần, đóng được 13 lần, số tiền 54.610.000 đồng chưa hốt hụi;

2. ĐTG: 01 phần đóng được 13 lần, số tiền 54.420.000 đồng chưa hốt hụi;

3. NTH: 01 phần đóng được 13 lần, số tiền 55.020.000 đồng chưa hốt hụi;

4. NTNg (Q): 01 phần đóng được 12 lần, số tiền 50.000.000 đồng chưa hốt hụi;

5. Cô Bé (chồng B): 01 phần hốt hụi, còn nợ lại NTT 07 lần hụi chết số tiền 35.000.000 đồng cấn trừ cho Phạm Hồng Nghi. Hiện không ai nợ ai;

6. BTL: 02 phần hốt 01 phần còn nợ lại 06 lần hụi chết, số tiền 30.000.000 đồng, 01 phần sống đóng được 13 lần, số tiền 54.420.000 đồng, nhưng do Len nợ NTT 30 triệu hụi chết. Dây hụi này NTT nợ Len 24.420.000 đồng;

7. LXT: 01 phần đã hốt hụi, còn nợ lại NTT 06 lần hụi chết số tiền 30.000.000 đồng. Cấn trừ hụi cho LTP hiện không ai nợ ai;

8. NTĐ: 01 phần đã hốt hụi đóng hụi chết đầy đủ, không ai nợ ai;

9. Chị Diễm: 01 phần đã hốt hụi đóng hụi chết đầy đủ, không ai nợ ai;

10. NTTh: 01 phần đóng được 13 lần, số tiền 55.020.000đ chưa hốt hụi;

11. Trương Lâm Vân: 01 phần đóng được 13 lần, số tiền 55.210.000đ chưa hốt hụi;

12. TTBT: 02 phần đóng được 03 lần nghỉ chơi, NTT lấy tên chơi và hốt hết 02 phần;

13. NTP: 01 phần đóng được 03-04 lần nghỉ chơi, NTT lấy tên chơi hốt hụi;

14. Nguyễn Thị Quỳnh Như: 01 phần đóng được 05,06 lần nghỉ chơi, NTT trả tiền hụi không ai nợ ai;

15. Đinh Thị Bích Ngọc: 01 phần hốt hụi đóng hụi chết đầy đủ không ai nợ ai;

16. Chị Tiền: 02 phần hốt 01 phần, còn 01 phần cấn trừ hụi không ai nợ ai. Trong dây hụi này các hụi viên hốt hết 07 phần. NTT hốt 06 phần. Trong đó:

04 phần hụi viên tham gia chơi (chị Trâm 02 phần, chị Phấn 01 phần, chị Như 01 phần) sau đó nghỉ chơi, NTT trả tiền cho hụi viên, tiếp tục đóng tiền hụi và lấy tên chơi hốt hết 03 phần. còn lại NTT tự ý lấy tên của hụi viên tham gia chơi hụi hốt mà không hỏi ý kiến của những người đó, NTT hốt 03 phần chiếm đoạt số tiền. Cụ thể như sau:

Lần thứ 11: Xổ ngày 19/01/2018, NTT lấy tên của chị LTTV bỏ thăm 810.000đ, hốt được 83.520.000đ;

Lần thứ 12: Xổ ngày 19/2/2018, NTT lấy tên của chị Trâm bỏ thăm 830.000đ, hốt được 83.360.000đ;

Lần thứ 13: Xổ ngày 19/3/2018, NTT lấy tên của Dì Ba Ngơn bỏ thăm 870.000đ, hốt được 83.040.000đ.

Như vậy, dây hụi này NTT tự ý lấy tên của 03 hụi viên hốt chiếm đoạt số tiền 249.920.000 đồng.

Dây hụi thứ 2: Loại hụi 3.000.000 đồng, hụi nữa tháng áp ngày 10/9/2017 âm lịch (nhằm ngày 29/10/2017 dương lịch) hụi này 01 tháng xổ 02 lần vào ngày 10 25 âm lịch hàng tháng. Dây hụi này có 20 người tham gia 29 phần (chân); hụi xổ được 14 lần, còn 15 lần chưa xổ. Cụ thể như sau:

1. LVTN: 02 phần đóng được 14 lần, số tiền 66.940.000đ chưa hốt hụi;

2. NVP (Mang): 02 phần đóng được 14 lần, số tiền 68.000.000đ chưa hốt hụi;

3. TTT (Đặng Thanh Hà): 03 phần đóng được 14 lần, số tiền 102.240.000đ chưa hốt hụi;

4. TVH (Anh Bảy): 01 phần đóng được 14 lần, số tiền 33.030.000đ chưa hốt hụi;

5. VTB (Sáu Chì): 01 phần đóng được 14 lần, số tiền 34.030.000đ chưa hốt hụi;

6. THG (Anh rễ NTT): 01 phần đã hốt, cấn trừ không ai nợ ai;

7. LTTV: 01 phần đóng được 14 lần, số tiền 34.080.000đ chưa hốt hụi;

8. Danh Út (TTV): 01 phần đóng được 13 lần, số tiền 32.060.000đ chưa hốt hụi;

 9. LXT: 02 phần hốt hết 02 phần cấn trừ hụi không ai nợ ai;

10. HMĐ: 01 phần đóng được 14 lần, số tiền 33.970.000đ chưa hốt hụi;

11. LTP: 02 phần đóng được 14 lần, số tiền 68.560.000đ chưa hốt hụi;

12. NTH: 01 phần đóng được 13 lần, số tiền 32.180.000đ chưa hốt hụi;

13. PTHN: 01 phần đóng được 14 lần, số tiền 33.970.000đ chưa hốt hụi;

14. LTTh: 02 phần hốt hết 02 phần cấn trừ hụi không ai nợ ai;

15. TLDH: 01 phần đóng được 14 lần, số tiền 33.970.000đ chưa hốt hụi;

16. LTHD (Lê Thị Tố Uyên): 01 phần đóng được 14 lần, số tiền 33.000.000đ chưa hốt hụi;

17. THM: 02 phần đã hốt hết 01 phần, còn 01 phần sống cấn trừ hụi hiện không ai nợ ai;

18. ĐTG (Dì Hương): 01 phần đóng được 14 lần, số tiền 33.030.000đ chưa hốt;

19. Anh Bình (Quyên): 01 phần đóng được 02 – 03 lần nghỉ chơi, NTT lấy tên chơi hốt hụi;

20. Chị Tiền: 02 phần hốt 01 phần, NTT hốt 01 phần. Tiền còn nợ NTT 18.000.000đ tiền hụi chết.

Trong dây hụi này các hụi viên hốt hết 06 phần, NTT hốt 08 phần. Trong đó:

02 phần hụi viên tham gia chơi (anh Bình 01 phần, chị Tiền 01 phần) sau đó nghỉ chơi, NTT trả tiền cho hụi viên, tiếp tục đóng tiền hụi chơi hốt 02 phần. Ngoài ra NTT tự ý lấy tên của hụi viên hốt 06 phần chiếm đoạt số tiền. Cụ thể như sau:

Lần thứ 1: Xổ ngày 10/9/2018, NTT lấy tên của Hà Tường bỏ thăm 500.000đ, hốt được 72.000.000đ;

Lần thứ 2: Xổ ngày 25/9/2018, NTT lấy tên của Hà Tường bỏ thăm 550.000đ, hốt được 71.050.000đ;

Lần thứ 11: Xổ ngày 10/2/2018, NTT lấy tên của hụi viên bỏ thăm 690.000đ, hốt được 50.740.000đ;

Lần thứ 12: Xổ ngày 25/2/2018, NTT lấy tên của anh Mang (Phong) bỏ thăm 650.000đ, hốt được 54.550.000đ;

Lần thứ 13: Xổ ngày 10/3/2018, NTT lấy tên của anh Bảy bỏ thăm 650.000đ, hốt được 69.050.000đ;

Lần thứ 14: Xổ ngày 25/3/2018, NTT lấy tên của chị Hằng bỏ thăm 780.000đ, hốt được 66.060.000đ;

Như vậy, dây hụi này NTT tự ý lấy tên của 06 hụi viên hốt chiếm đoạt số tiền 383.450.000 đồng.

Ngoài ra, trong dây hụi này NTT tự ý lấy 04 phần hụi của các hụi viên đang chơi để bán cho chị NTH chiếm đoạt số tiền 271.520.000 đồng.

Dây hụi thứ 3: Loại hụi 2.000.000 đồng, hụi 10 ngày áp ngày 29/10/2017 âm lịch (nhằm ngày 16/12/2017 dương lịch) hụi 10 ngày xổ vào ngày 10 và 20 và 30 âm lịch hàng tháng. Dây hụi này có 21 người tham gia 40 phần (chân); hụi xổ được 15 lần, còn 25 lần chưa xổ. Cụ thể như sau:

1. LVTN: 03 phần hốt 01 phần, còn nợ 25 lần hụi chết, số tiền 50.000.000đ, 02 phần sống đóng được 15 lần số tiền 45.640.000đ, cấn trừ hụi sống chết, còn nợ lại NTT số tiền 4.360.000đ;

2. PHM: 02 phần đóng được 15 lần, số tiền 44.480.000đ chưa hốt hụi;

3. ĐTT: 03 phần hốt 01 phần, còn 02 phần sống cấn trừ hụi chết không ai nợ ai;

4. PTHN: 02 phần đóng được 15 lần, số tiền 45.280.000đ chưa hốt hụi;

5. LTTh: 03 phần hốt 01 phần, còn 02 phần sống cấn trừ hụi không ai nợ ai;

6. ĐTS: 02 phần đóng được 15 lần, số tiền 44.600.000đ chưa hốt hụi;

7. BTL: 01 phần đóng được 15 lần, số tiền 22.590.000đ chưa hốt hụi;

8. NTH: 05 phần đóng được 15 lần, số tiền 114.150.000đ chưa hốt hụi;

9. TVH (Anh Bảy): 01 phần đóng được 15 lần, số tiền 22.540.000đ chưa hốt hụi;

10. NTrNg: 01 phần đóng được 15 lần, số tiền 23.000.000đ chưa hốt hụi;

11. Chị Thủy: 02 phần đóng được 15 lần, số tiền 44.480.000đ chưa hốt hụi;

12. TLV: 01 phần đóng được 15 lần, số tiền 22.850.000đ chưa hốt hụi;

13. LXT: 03 phần hốt 02 phần, còn 01 phần sống, cấn trừ hụi không ai nợ ai;

14. LTTV: 01 phần đóng được 15 lần, số tiền 22.810.000đ chưa hốt hụi;

15. TTT: 02 phần hốt 01 phần, còn nợ NTT 46.450.000đ tiền hụi chết, cấn trừ hụi cho PTHN. Hiện không ai nợ ai;

16. TTT (Hà – Tường): 01 phần đóng được 15 lần, số tiền 23.000.000đ chưa hốt hụi;

17. LTP: 02 phần đóng được 15 lần, số tiền 46.000.0000đ chưa hốt hụi;

18. NTTh: 01 phần đóng được 15 lần, số tiền 22.830.000đ chưa hốt hụi;

19. NTH: 01 phần hốt hụi đóng chết đầy đủ hiện không ai nợ ai;

20. Chị Quyên: 01 phần đóng được 04-05 lần nghỉ chơi, NTT tiếp tục lấy tên chơi hốt hụi;

21. Chị Minh: 02 phần hốt hết 02 phần đóng hụi chết đầy đủ không ai nợ ai. Trong dây hụi này các hụi viên hốt hết 09 phần, NTT hốt 06 phần. Trong đó:

01 phần Quyên tham gia chơi, sau đó nghỉ chơi, NTT trả lại tiền cho hụi viên, tiếp tục đóng tiền hụi và lấy tên chơi hốt hụi. NTT tự ý lấy tên của hụi viên hốt hết 05 phần chiếm đoạt tiền. Cụ thể như sau:

Lần thứ 11: Xổ ngày 10/2/2018, NTT lấy tên của hụi viên bỏ thăm 510.000đ, hốt được 50.740.000đ;

Lần thứ 12: Xổ ngày 20/2/2018, lần thứ 13 ngày 30/2/2018, lần thứ 14 ngày 10/3/2018, NTT lấy tên của hụi viên bỏ thăm 500.000đ, hốt được 153.000.000đ;

Lần thứ 15: Xổ ngày 20/3/2018, NTT lấy tên của hụi viên bỏ thăm 630.000đ, hốt được 47.620.000đ;

Như vậy, dây hụi này NTT tự ý lấy tên của các hụi viên hốt hết 05 phần chiếm đoạt số tiền 251.360.000 đồng.

Ngoài ra, trong dây hụi này NTT tự ý lấy 10 phần hụi của các hụi viên đang chơi bán cho 06 hụi viên khác, gồm:

1. NTH 04 phần, số tiền 249.700.000đ;

2. PHNg 02 phần, số tiền 123.000.000đ;

3. TVH 01 phần, số tiền 62.500.000đ;

4. LTP 01 phần, số tiền 61.240.000đ;

5. ĐTG 01 phần, số tiền 61.500.000đ 6. NVP 01 phần, số tiền 62.500.000đ.

Tổng số tiền NTT bán hụi chiếm đoạt là 620.440.000 đồng.

Như vậy, tổng số tiền bị cáo NTT tự ý lấy tên của các hụi viên tham gia chơi hụi để hốt hụi và mua bán hụi chiếm đoạt số tiền trong 03 dây hụi là 1.776.690.000 đồng (Trong đó, tiền lấy tên hụi viên hốt 884.730.000 đồng, tiền bán hụi là 891.960.000 đồng).

Ngoài ra, bị cáo NTT còn tổ chức mở 02 dây hụi. Cụ thể như sau:

Dây hụi thứ 1: Loại hụi 3.000.000 đồng, hụi nữa tháng áp ngày 15/01/2018 âm lịch (nhằm ngày 2/3/2018 dương lịch) hụi 01 tháng xổ 02 lần vào ngày 15 và 30 âm lịch hàng tháng. Dây hụi này có 14 người tham gia 21 phần (chân); hụi xổ được 05 lần, còn 16 lần chưa xổ. Cụ thể như sau:

1. ĐTNg (Ba Q): 03 phần đóng được 05 lần, số tiền 35.130.000đ chưa hốt hụi;

2. LXT: 02 phần đóng được 05 lần, số tiền 23.420.000đ chưa hốt hụi, cấn trừ hụi qua các dây hụi khác. Hiện không ai nợ ai;

3. NVP (Mang): 02 phần đóng được 05 lần, số tiền 24.260.000đ chưa hốt hụi;

4. Cô Lẹ (Chồng Đoan): 01 phần đóng được 05 lần, số tiền 11.710.00đ chưa hốt hụi;

5. BTKD: 01 phần đóng được 05 lần, số tiền 11.780.000đ chưa hốt hụi;

6. ĐTS: 01 phần đóng được 05 lần, số tiền 11.710.000đ chưa hốt hụi;

7. LHMK (Dì Năm): 01 phần đóng được 05 lần, số tiền 11.710.000đ chưa hốt hụi;

8. THL (Anh Lâm): 02 phần đóng được 05 lần, số tiền 23.400.000đ chưa hốt hụi;

9. HMĐ: 01 phần đóng được 05 lần, số tiền 11.710.000đ chưa hốt hụi;

10. Chị Thắm: 01 phần đóng được 03 lần thì nghỉ chơi, NTT trả tiền hụi lấy tên chơi hốt hụi;

11. Nguyễn Thị Quỳnh Như (Quỳnh Như): 02 phần đóng được 03 lần thì nghỉ chơi, NTT trả tiền hụi lấy tên chơi hốt hụi;

12. TTT: 01 phần đóng được 03 lần nghỉ chơi, NTT trả tiền hụi lấy tên chơi hốt hụi;

13. Chị Lan (Em dâu anh Giang): 01 phần đóng được 03 lần thì nghỉ chơi, NTT lấy tên chơi hốt hụi;

14. Chị Minh: 02 phần đóng được 05 lần chưa hốt hụi cấn trừ hụi không ai nợ ai.

Trong dây hụi này các hụi viên tham gia chơi hụi sau đó nghỉ chơi, NTT trả lại tiền cho hụi viên. NTT tiếp tục đóng tiền hụi và lấy tên chơi hốt 05 phần.

Dây hụi thứ 2: Loại hụi 1.000.000 đồng, hụi tuần áp ngày 15/2/2018 âm lịch (nhằm ngày 31/3/2018 dương lịch) hụi 01 tuần xổ 01 lần. Dây hụi này có 24 người tham gia 36 phần (chân); hụi xổ được 06 lần, còn 30 lần chưa xổ. Cụ thể như sau:

1. TTV (Danh Út): 02 phần đóng được 06 lần, số tiền 9.700.000đ chưa hốt hụi;

2. ĐTG: 02 phần đóng được 06 lần, số tiền 9.660.000đ chưa hốt hụi;

3. LVTN: 02 phần đóng được 06 lần, số tiền 9.720.000đ chưa hốt hụi;

4. BTL: 01 phần đóng được 06 lần, số tiền 4.850.000đ chưa hốt hụi;

5. NTT: 01 phần đóng được 06 lần thỏa thuận không ai nợ ai;

6. ĐTNg (Ba Q): 01 phần đóng được 06 lần, số tiền 4.830.000đ chưa hốt hụi;

 7. PTHN: 02 phần đóng được 06 lần, số tiền 9.700.000đ chưa hốt hụi;

8. BTKD: 02 phần đóng được 06 lần, số tiền 9.700.000đ chưa hốt hụi;

9. VTB (Sáu Chì): 01 phần đóng được 06 lần, số tiền 4.830.000đ chưa hốt hụi;

10. TLDH: 02 phần đóng được 06 lần, số tiền 9.700.000đ chưa hốt hụi;

11. NPD: 01 phần đóng được 06 lần, số tiền 4.830.000đ chưa hốt hụi;

12. TTT (Trinh): 01 phần hốt hụi cấn trừ hụi cho PTHN. Hiện không ai nợ ai;

13. HMĐ: 02 phần đóng được 06 lần, số tiền 9.700.000đ chưa hốt hụi;

14. Bé Năm: 01 phần đóng được 06 lần, số tiền 4.830.000đ chưa hốt hụi;

15. Pham Văn Công: 01 phần đóng được 06 lần, số tiền 4.830.000đ chưa hốt hụi;

16. Chị Hương: 02 phần đóng được 06 lần, số tiền 9.660.000đ chưa hốt hụi;

17. TLV: 01 phần đóng được 06 lần, số tiền 4.850.000đ chưa hốt hụi;

18. LXT: 02 phần đóng được 06 lần chưa hốt hụi, cấn trừ hụi không ai nợ ai;

19. Bùi Thị Thủy: 02 phần đóng được 06 lần, số tiền 9.700.000đ chưa hốt hụi;

20. TTO: 01 phần đóng được 06 lần, số tiền 4.830.000đ chưa hốt hụi;

21. Chị Lan: 01 phần đóng được 04 lần nghỉ chơi, NTT trả tiền hụi lấy tên chơi hốt hụi;

22. Chị Thảo: 02 phần hốt hết 02 phần, còn nợ NTT tiền hụi chết 18.000.000đ;

23. Chị Tiền: 02 phần hốt hết 02 phần, còn nợ NTT tiền hụi chết 15.000.000đ;

24. TVH (Anh Bảy): 01 phần đóng được 06 lần, số tiền 4.830.000đ chưa hốt hụi.

Trong dây hụi này các hụi viên hốt hết 05 phần đã đóng hụi chết cho NTT và 01 phần của chị Lan chơi, sau đó nghỉ chơi, NTT trả lại tiền và lấy tên chơi hốt. Có 02 hụi viên (chị Tiền, chị Thảo) hốt hụi còn nợ NTT số tiền 33.000.000 đồng.

Ngoài ra, bị cáo NTT còn hỏi vay mượn tiền của các hụi viên và việc hụi viên hốt hụi bị cáo NTT còn nợ tiền hụi chưa giao. Cụ thể:

1. NTH, vay mượn số tiền: 70.000.000đ;

2. HMĐ, vay mượn số tiền: 60.000.000đ;

3. LTTV, vay mượn số tiền 130.000.000đ;

4. NVP, vay mượn số tiền 20.000.000đ;

5. TVH, hốt hụi chưa giao số tiền 13.930.000đ.

Tổng cộng: 293.930.000 đồng.

Về phần trách nhiệm dân sự: yêu cầu NTT bồi thường toàn bộ số tiền cho các người bị hại, như sau:

1. LVTN: 126.910.000đ;

2. NVP (Mang): 92.260.000đ + 62.500.000đ (tiền mua hụi) = 154.760.000đ, ngoài ra NTT còn vay của anh Phong 20.000.000 đ, như vậy NTT phải trả anh Phong tổng cộng 174.760.000đ.

3. TTT: 125.240.000đ;

4. TVH (Anh Bảy): 60.400.000đ + 62.500.000đ (tiền mua hụi) = 122.900.000đ, ngoài ra còn nợ 13.930.000đ tiền hốt hụi chưa giao, như vậy NTT phải trả anh Hai tổng cộng là 136.830.000đ.

5. VTB (Sáu Chì): 38.860.000đ – 9.300.000đ (NTT trả) = 29.560.000đ;

6. LTTV: 56.890.000đ - 1.500.000đ (NTT trả) = 55.390.000đ; ngoài ra NTT còn vay của chị LTTV 130.000.000đ, như vậy NTT phải trả cho chị LTTV tổng cộng 185.390.000đ.

7. TTV: 41.760.000đ - 6.400.000đ (NTT trả) = 35.360.000đ;

8. HMĐ: 55.380.000đ; ngoài ra NTT còn nợ tiền vay 60.000.000đ, như vậy tổng cộng NTT phải trả chị Điệp là 115.380.000đ.

9. LTP: 114.560.000đ + 61.240.000đ (tiền mua hụi) = 175.800.000đ – 22.000.000đ (NTT trả) = 153.800.000đ;

10. NTH: 201.350.000đ + 521.220.000đ (tiền mua hụi) = 722.570.000đ – 3.000.000đ (NTT trả) = 719.570.000đ; ngoài ra NTT còn nợ tiền vay chị Huyền 70.000.000đ, như vậy tổng cộng NTT phải trả chị Huyền là 789.570.000đ.

11. PTHN: 88.950.000đ + 123.000.000đ (tiền mua hụi) = 211.950.000đ – 84.910.000đ = 127.040.000đ;

12. TLDH: 43.670.000đ;

13. LTHD: 33.000.000đ - 7.500.000đ (NTT trả) =25.500.000đ;

14. ĐTG: 97.110.000đ + 61.500.000đ (tiền mua hụi) = 158.610.000đ - 22.000.000đ (cấn trừ hụi và NTT trả) =136.610.000đ;

15. NTNg: 50.000.000đ - 7.000.000đ (NTT trả) = 43.000.000đ;

16. BTL: 51.860.000đ - 5.900.000đ (NTT trả) = 45.960.000đ;

17. NTTh: 77.850.000đ - 4.000.000đ (NTT trả) = 73.850.000đ;

18. TLV: 82.910.000đ - 2.000.000đ (NTT trả) = 80.910.000đ;

19. PHM: 44.480.000đ - 2.000.000đ (NTT trả) = 42.480.000đ;

20. ĐTS: 56.310.000đ - 8.000.000đ (NTT trả) = 48.310.000đ;

21. Thủy: 44.480.000đ - 10.000.000đ (NTT trả) = 34.480.000đ;

22. ĐTNg (Ba Q): 39.960.000đ - 2.000.000đ (NTT trả) = 37.960.000đ;

23. BTKD: 21.480.000đ - 2.500.000đ (NTT trả) = 18.980.000đ;

24. Bé Năm: 4.830.000đ - 1.000.000đ (NTT trả) = 3.830.000đ;

25. PVC: 4.830.000đ - 1.830.000đ (NTT trả) = 3.000.000đ;

26. Chị Hương: 9.660.000đ - 500.000đ (NTT trả) = 9.160.000đ;

27. TTO: 4.830.000đ - 1.830.000đ (NTT trả) = 3.000.0000đ;

28. Lẹ (Chồng Đoan): 11.710.000đ – 5.000.000đ (NTT trả) = 6.710.000đ;

29. LHMK: 11.710.000đ - 2.000.000đ (NTT trả) = 9.710.000đ;

30. THL: 23.400.000đ - 5.500.000đ (NTT trả) = 17.900.000đ.

Tổng cộng: 2.912.230.000đ – 218.670.000đ = 2.693.560.000đ.

Tại Bản Cáo trạng số: 46/VKSTKG-P2, ngày 01/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kiên Giang truy tố bị cáo NTT về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại bản án sơ thẩm số 68/2019/HSST ngày 14 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang đã quyết định:

Căn cứ vào điểm a khoản 4 Điều 174, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, Tuyên bố bị cáo NTT phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Xử phạt bị cáo NTT 07 (bảy) năm tù, thời điểm chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam là ngày 14/3/2019.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, án phí, nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vào các ngày 14, 15, 18, 19 và 20/11/2019, những người bị hại gồm các ông bà LVTN, NVP, LTTV, HMĐ, NTH, ĐTG, BTL và NTTh kháng cáo yêu cầu tăng nặng hình phạt đối với bị cáo NTT.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo NTT khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như bản án sơ thẩm đã xét xử.

Các ông bà LVTN, NVP, LTTV, HMĐ, NTH, ĐTG, BTL và NTTh không thay đổi, bổ sung, giữ nguyên yêu cầu kháng cáo ban đầu.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên toà phát biểu quan điểm như sau:

Về tội danh: Bị cáo NTT đã thực hiện hành vi gian dối tự ý lấy tên của các hụi viên để bỏ và hốt hụi; tự ý lấy tên của các hụi viên bán hụi cho người khác để chiếm đoạt tổng cộng 1.693.330.000 đồng. Do đó, bản án sơ thẩm xét xử bị cáo NTT về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật.

Về hình phạt: Mức án 07 năm tù mà bản án sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo NTT là phù hợp với mức độ nguy hiểm của hành vi, cũng như nhân thân của bị cáo, không nhẹ như đơn kháng cáo của các bị hại đã nêu.

Về trách nhiệm bồi thường: Bản án sơ thẩm đã giải quyết đúng.

Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của những người bị hại và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

* Trong phần tranh luận, các đương sự trình bày như sau:

- Các ông bà LVTN, NVP, LTTV, HMĐ, NTH, ĐTG, BTL và NTTh đều xác định số tiền mà bản án sơ thẩm buộc bị cáo NTT phải bồi thường cho 8 người là đúng. Nếu bị cáo NTT không trả số tiền như bản án sơ thẩm đã tuyên thì đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm tăng nặng hình phạt đối với bị cáo.

- Luật sư bào chữa cho bị cáo phát biểu: Luật sư hoàn toàn đồng ý với quan điểm của Kiểm sát viên. Về trách nhiệm dân sự, đề nghị cấp phúc thẩm tách những khoản tiền dân sự thành một vụ án riêng khi các đương sự có yêu cầu khởi kiện.

* Trong lời nói sau cùng, bị cáo nhìn nhận sai phạm của mình, xin lỗi những người bị hại và mong sớm được chấp hành án để ra tù lao động trả lại tiền cho những người bị hại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của các bị hại LVTN, NVP, LTTV, HMĐ, NTH, ĐTG, BTL, NTTh làm trong hạn luật định nên đủ điều kiện để thụ lý và xét xử theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về nội dung:

[2.1] Theo Kết luận điều tra và Cáo trạng, thì bị cáo NTT bắt đầu làm chủ hụi từ năm 2011. Từ năm 2014 đến năm 2018, do bị nhiều hụi viên hốt hụi không đóng lại, để duy trì các dây hụi và để có tiền tiêu xài, bị cáo sử dụng các thủ đoạn gian dối là tự ý lấy tên hụi viên tham gia chơi hụi để bỏ thăm hốt hụi, tự ý lấy tên của các hụi viên để bán hụi, chiếm đoạt tổng cộng 1.776.690 đồng của những người bị hại. Qua diễn biến thực tế tại phiên toà sơ thẩm thì bị số tiền bị cáo chiếm đoạt là 1.693.330.000 đồng. Xét thấy, đối với các tội phạm về chiếm đoạt tài sản thì trách nhiệm hình sự phải đi liền và tương ứng với trách nhiệm bồi thường. Bản án sơ thẩm quy kết bị cáo NTT chiếm đoạt và phải chịu trách nhiệm hình sự đối với số tiền 1.693.330.000 đồng. Tuy nhiên, trong phần quyết định của bản án sơ thẩm đã buộc bị cáo phải bồi thường cho những người bị hại với số tiền lên đến 2.132.580.000 đồng (đã trừ đi những khoản tiền giao dịch dân sự). Điều này là mâu thuẫn.

[2.2] Đối với dây hụi thứ 3, loại hụi 2.000.000 đồng, 10 ngày và áp hụi ngày 29/10/2017 âm lịch: Kết luận điều tra, Cáo trạng và bản án sơ thẩm cáo buộc bị cáo NTT lấy tên các hụi viên, bỏ thăm 03 lần, hốt và chiếm đoạt tổng cộng 251.360.000 đồng, nhưng không xác định được bị cáo đã lấy tên các hụi viên nào để bỏ thăm, hốt và chiếm đoạt số tiền nêu trên, mà chỉ ghi chung chung.

[2.3] Trong 03 dây hụi mà bản án sơ thẩm quy buộc bị cáo có hành vi gian dối để chiếm đoạt (dây thứ nhất, thứ hai và thứ ba) có cả những khoản tiền là giao dịch dân sự; cũng như dây hụi 3.000.000 đồng áp ngày 15/01/2018, dây hụi 1.000.000 đồng áp ngày 15/02/2018 và những khoản tiền mà bị cáo vay mượn, không có dấu hiệu hình sự, nhưng bản án sơ thẩm giải quyết luôn trong vụ án hình sự này là không đúng.

Từ những phân tích nêu trên, xét thấy quá trình điều tra có những thiếu sót như chưa xác định đúng số tiền mà bị cáo đã có hành vi gian dối để chiếm đoạt của từng bị hại, dẫn đến việc buộc bị cáo bồi thường số tiền cao hơn số tiền mà bị cáo chiếm đoạt, chưa tách rõ ràng, cụ thể số tiền giao dịch dân sự…những thiếu sót này không thể bổ sung, khắc phục được tại cấp phúc thẩm. Do đó, cần thiết phải huỷ toàn bộ bản án sơ thẩm, chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kiên Giang điều tra lại vụ án.

[3] Các lập luận trên đây cũng là căn cứ để Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của những người bị hại, đề nghị của Luật sư bào chữa cho bị cáo và đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên toà.

[4] Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo NTT không phải chịu.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 355, điểm b khoản 1 Điều 358 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

QUYẾT ĐỊNH

Không chấp nhận kháng cáo của những người bị hại gồm các ông bà LVTN, NVP, LTTV, HMĐ, NTH, ĐTG, BTL, NTTh.

[1] Huỷ Bản án hình sự sơ thẩm số 68/2019/HS-ST ngày 14 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang. Chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kiên Giang điều tra lại vụ án.

[2] Tiếp tục giam bị cáo NTT cho đến khi Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Kiên Giang thụ lý lại vụ án.

[3] Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo NTT không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.

[4] Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

584
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 183/2022/HS-PT

Số hiệu:183/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về