TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SẦM SƠN, TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 18/2022/HS-ST NGÀY 04/04/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 04 tháng 4 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
Xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 13/2022/TLST- HS ngày 08 tháng 3 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2022/QĐXXST- HS ngày 22 tháng 3 năm 2022, đối với bị cáo:
- Lê Văn T - Sinh năm 1999.
Nơi ĐKHKTT: Thôn M, xã Quảng Minh, thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa; trình độ học vấn: 9/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; con ông: Lê Văn H (đã chết) và bà Dư Thị H. Bố, mẹ bị cáo sinh được 02 người con, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình; chưa có vợ con.
Tiền án: Tại bản án số: 26/2020/HSPT ngày 04/2/2020 Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa xử phạt 06 (Sáu) tháng tù về tội trộm cắp tài sản (Chấp hành xong hình phạt phạt tù ngày 24/8/2020).
Tiền sự: Ngày 29/11/2020 C an TP.Sầm Sơn xử phạt hành chính về hành vi “Xâm hại sức khỏe của người khác” theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 22/QĐ-XPHC. (T chưa nộp phạt theo quy định).
Nhân thân:
- Tại thời điểm phạm tội, Lê Văn T đã bị Cơ quan CSĐT C an thành phố Thanh Hóa khởi tố về hành vi “Trộm cắp tài sản” và áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” nhưng T vẫn tiếp tục phạm tội.
- Ngày 23/11/2021, Lê Văn T bị TAND thành phố Thanh Hóa xử phạt 07 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. (Hiện nay bị cáo đang chấp hành hình phạt tù tại Nhà tạm giữ C an thành phố Sầm Sơn theo Bản án số 22/2021/HSST ngày 23/11/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa). Có mặt tại phiên tòa.
Người bào chữa cho bị cáo: Bà Nguyễn Thị Ngọc T, là Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp viên pháp lý Nhà nước tỉnh Thanh Hóa. Có mặt.
- Bị hại: Cháu Nguyễn Anh T - sinh ngày 11/01/ 2006. Có mặt.
Người giám hộ cho bị hại: Bà Lê Ngọc H – sinh năm 1987. Có mặt.
Địa chỉ: Thôn Đ, xã L, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị hại: Bà Lê Thị H là Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp viên pháp lý Nhà nước tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt có lý do.
- Người làm chứng:
1. Anh Nguyễn Văn C – sinh năm 1982.
2. Anh Nguyễn Văn C – sinh năm 1993.
Địa chỉ: Thôn Đ, xã L, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
Có mặt.
3. Chị Nguyễn Thị Như Q - sinh năm 2006.
4. Chị Lê Thị H - sinh năm 2004.
5. Chị Dư Thị H1 - sinh năm 1977.
Địa chỉ: Thôn M, xã Quảng Minh, thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa 6. Anh Lê Văn H – sinh năm 1999.
Địa chỉ: Thôn 6, xã Q, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa.
7. Anh Lê Văn K – sinh năm 2004.
Địa chỉ: Khu phố L, phường S, thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
8. Anh Trình Văn L – sinh năm 1993.
Địa chỉ: Thôn 3, xã Q, thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
9. Anh Vũ Như H – sinh năm 1980.
Địa chỉ: Khu phố C Vinh, phường C, thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
10. Chị Lê Thị H – sinh năm 1973.
Địa chỉ: Tổ dân phố An Chính, phường Quảng Châu, thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa. (Các nhân chứng còn lại đều vắng mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 14 giờ 00 phút, ngày 04/7/2021, Lê Văn T đang ở trên khu nhà trọ của gia đình thuộc phường Quảng Phú, thành phố Thanh Hóa,tỉnh Thanh Hóa. thì gặp anh Nguyễn Anh T, sinh năm 2006, ở thôn Đ, xã L, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa, đi xe Honda Wave, BKS: 36B7-xxxxx màu xanh, đen, bạc đến để gặp Nguyễn Thị Như Q, sinh năm 2006 ở thôn M, xã Quảng Minh, thành phố Sầm Sơn đang ở phòng trọ cùng với Lê Thị H (em gái của T).
Do cần tiền tiêu sài cá nhân nên Lê Văn T nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc xe máy của Nguyễn Anh T đem đi cầm cố. Khi Nguyễn Anh T và Nguyễn Thị Như Q đang đi chơi ở phường Quảng Cát, thành phố Thanh Hóa thì Lê Văn T lúc này đang ở phòng trọ cùng Lê Văn H, sinh năm 1999 ở thôn 6, xã Q, huyện Quảng Xương đã gọi điện thoại cho T, nhờ T chở xuống thành phố Sầm Sơn thì T đồng ý và đi xe quay lại nhà trọ. Đồng thời lúc này Lê Văn T nhắn tin cho Lê Văn K, sinh năm 2004 ở TDP L, phường S, thành phố Sầm Sơn hỏi K có biết chỗ nào cầm cố xe không thì K trả lời biết một chỗ dưới Sầm Sơn, T rủ K lên phòng trọ đi với T thì K đồng ý.
Khi anh Nguyễn Anh T về nhà trọ, Lê Văn T nhờ Nguyễn Anh T chở T, H và K xuống thành phố Sầm Sơn. Do không biết đường nên T để T điều khiển xe đi từ nhà trọ ở phường Quảng Phú, thành phố Thanh Hóa xuống nhà nghỉ T thuộc TDP. An Chính, phường Quảng Châu, thành phố Sầm Sơn. Đến nơi, K đứng ngoài còn T, T, H đi vào nhà nghỉ. T và H thuê phòng nghỉ, khi thuê phòng nghỉ xong, T hỏi mượn xe T đi công việc, T bảo T và H lên phòng đợi và phóng xe đi. Lê Văn T và Lê Văn K đi xe đến nhà Vũ Như H, sinh năm 1980 ở khu phố C Vinh, phường C, thành phố Sầm Sơn theo chỉ dẫn của K, T và K vào gặp H, T nói với H là xe của gia đình T nhưng bố mẹ giữ giấy tờ và muốn cầm cố xe lấy số tiền 6.000.000 đồng (Sáu triệu đồng) thì H đồng ý. Cầm cố xe xong, T và K thuê taxi đến ngã ba Môi, phường Quảng Tâm, thành phố Thanh Hóa, T vào Viettel store nạp tiền vào game đánh bạc trên điện thoại số tiền: 1.200.000 đồng rồi cùng K quay về nhà nghỉ T. Thấy T quay về nhà nghỉ, T hỏi “xe máy đâu rồi” thì T nói dối là xe đã bị C an thành phố Sầm Sơn tạm giữ, hẹn T tối cùng ngày sẽ nộp phạt, xin xe trả lại cho T. Khoảng 30 phút sau, T đi ra ngoài, T hỏi T đi đâu thì T nói là đi xin xe nên T không nói gì và tiếp tục đợi tại nhà nghỉ, T và K bắt taxi đi về nhà trọ ở phường Quảng Phú, thành phố Thanh Hóa. Đến khoảng 20 giờ 00 phút cùng ngày, H xuống trả phòng thì được biết T đã thanh toán tiền phòng nên H về nhà, còn T bắt taxi về nhà nói lại nội dung việc trên cho gia đình biết. Khoảng 21 giờ 00 phút cùng ngày, T cùng bố là anh Nguyễn Văn C, sinh năm 1982 và chú là anh Nguyễn Văn C, sinh năm 1993, đều ở tại thôn Đ, xã L, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa đến khu nhà trọ ở phường Quảng Phú, thành phố Thanh Hóa để gặp T thì T tiếp tục nói dối với anh C, anh C và T rằng xe máy BKS: 36B7-xxxxx bị C an thành phố Sầm Sơn tạm giữ và hẹn ngày mai sẽ nộp phạt, lấy xe ra trả lại cho gia đình T, tin lời T nói nên gia đình T ra về. Đợi đến chiều ngày 05/7/2021, không thấy T trả lại xe, anh C, anh C, T tiếp tục đến gặp T ở nhà trọ tại phường Quảng Phú, yêu cầu T đi cùng xuống C an thành phố Sầm Sơn để nộp phạt, xin xe, T đồng ý đi cùng, khi gần đến C an thành phố Sầm Sơn, T nói dối là xe không phải T điều khiển, bạn T điều khiển nên phải đợi bạn của T đến mới nộp phạt, xin được xe nên tất cả ngồi ở quán nước gần C an thành phố Sầm Sơn đợi bạn của T đến. Lúc này, T nhắn tin nhờ Trình Văn L, ở thôn 3, xã Q, thành phố Sầm Sơn đến đón, khi L đi xe máy đến thì T lên xe L phóng xe bỏ đi.
Sau khi sự việc xảy ra gia đình anh Nguyễn Anh T đã không còn liên lạc được với Lê Văn T nữa. Nên hồi 9 giờ 00 phút ngày 06/7/2021 anh Nguyễn Anh T đã đến C an phường Quảng Châu, thành phố Sầm Sơn tố giác hành vi phạm tội của Lê Văn T.
Nhận được tố giác về tội phạm, C an phường Quảng Châu, thành phố Sầm Sơn đã tiến hành xác minh sự việc, chuyển hồ sơ đến Cơ quan CSĐT C an thành phố Sầm Sơn tiến hành điều tra xử lý.
Nhận được hồ sơ vụ việc, Cơ quan CSĐT C an thành phố Sầm Sơn đã làm việc với Lê Văn T, ra thông báo truy tìm vật chứng, yêu cầu định giá tài sản và thu thập các tài liệu liên quan để điều tra xử lý.
Tại kết luận định giá tài sản số: 55/KL-HĐĐG ngày 01/9/2021 của Hội đồng định giá tài sản thành phố Sầm Sơn kết luận: Giá trị của chiếc xe máy BKS: 36B7- xxxxx bị chiếm đoạt ngày 04/7/2021 là 14.000.000đồng.
Kết luận giám định số: 2559/PC09 ngày 09/8/2021 của phòng Kỹ thuật hình sự C an tỉnh Thanh Hóa kết luận: Không phát hiện dấu hiệu cắt, ghép chỉnh sửa trong 01 (một) tệp video của 01 (một) USB gửi giám định.
Về trách nhiệm dân sự: Đến nay Lê Văn T chưa bồi thường đối với tài sản là chiếc xe máy BKS: 36B7-xxxxx mà T đã chiếm đoạt của anh Nguyễn Anh T.
Cáo trạng số 21/CTr-VKS.HS ngày 08 tháng 3 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sầm Sơn truy tố Lê Văn T, về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, theo quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với Lê Văn T và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h, i khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 56 Bộ luật hình sự; xử phạt Lê Văn T, mức án từ 18 đến 24 tháng tù, về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, cộng vớ 07 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” của Bản án số 22/2021/HSST ngày 23/11/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa, tổng cộng là 31 (Ba mươi mốt) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt của bản án trước được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án.
Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị hại theo quy định của pháp luật.
Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Về án phí: Bị cáo thuộc diện hộ nghèo nên không phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Người bào chữa cho bị cáo: Bà Nguyễn Thị Ngọc T, phát biểu quan điểm bào chữa cho bị cáo: Gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn thuộc diện hộ nghèo nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm đ khoản 1 điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí lệ phí Tòa án để miến tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo và căn cứ điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và cho bị cáo một cơ hội sửa chữa lỗi lầm sớm có điều kiện trở thành người công dân tố sống có ích cho xã hội.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị hại: Bà Lê Thị H, có quan điểm bảo vệ như sau: Hnh vi phạm tội của bị caó T là nguy hiểm cho xã hội, gây ra cho người bị hại thiệt hại về vật chất và tổn thất về tình thần, đến nay bị cáo chưa khắc phục hậu quả cho gia đình bị hại nên đề nghị Hội đồng xét xử yêu cầu bị cáo T phải có trách nhiệm về dân sự là trả lại chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave, màu xanh đen bạc, BKS: 36B7-xxxxx cho gia đình người bị hại cháu Nguyễn Anh T, giá trị bằng tiền là 14.000.000đ; về trách nhiệm hình sự: Căn cứ khoản 1 điều 174 Bộ luật hình sự và các tình tiết của vụ án để quyết định mức hình phạt phù hợp với tính chất mức độ của hành vi mà bị cáo đã gây ra nhằm đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa chung.
Trong phần tranh luận bị cáo, người bào chữa cho bị cáo không có ý kiến tranh luận gì với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Bị hại, đại diện hợp pháp cho bị hại đề nghị Hội đồng xét xử, xử lý trách nhiệm hình sự đối với bị cáo theo quy định của pháp luật, về dân sự yêu cầu bị cáo phải có trách nhiệm trả lại chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave, màu xanh đen bạc, BKS: 36B7-xxxxx trị giá bằng tiền là 14.000.000đ. Trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án, trong lời nói sau cùng bị cáo nhận thấy việc làm của mình là sai trái đối với người bị hại, sai trái với pháp luật. Kính mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và cho bị cáo để bị cáo có điều kiện trở thành người công dân tốt sống có ích cho xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về tố tụng: Trong giai đoạn tiến hành tố tụng, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; Điều tra viên; Kiểm sát viên đã thực hiện đầy đủ, khách quan, nghiêm túc các bước điều tra, truy tố đúng theo quy định của pháp luật.
[2]. Về nội dung vụ án: Khoảng 14 giờ ngày 04/7/2021 tại nhà nghỉ T, thuộc tổ dân phố An Chính, phường Quảng Châu, thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Lê Văn T đã lừa đảo chiếm đoạt 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave, màu xanh đen bạc, BKS: 36B7-xxxxx của anh Nguyễn Anh T. Qua định giá tài sản trị giá 14.000.000đ (Mười bốn triệu đồng), đến nay bị cáo chưa khắc phục hậu quả đối với bị hại.
Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố Lê Văn T, về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3]. Xét tính chất vụ án: Hnh vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Do lười nhác lao động không chịu tu dưỡng rèn luyện bản thân, nghiện ma túy không có tiền chi tiêu cá nhân, bị cáo bất chấp pháp luật cố ý trực tiếp thực hiện hành vi gian dối, sảo quyệt để chiếm đoạt chiếc xe máy của cháu T một cách trái pháp luật, gây tâm lý hoang mang lo lắng bất bình đối với quần chúng nhân dân, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an xã hội trên địa bàn dân cư nên cần phải có đường lối xử lý nghiêm minh, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra để bị cáo thấy được sự nghiêm minh của pháp luật. Việc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết mới đủ tác dụng cải tạo, giáo dục đồng thời răn đe và đấu tranh, phòng ngừa tội phạm chung cho xã hội.
[4]. Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì thấy rằng: Lý lịch của bị cáo có nhân thân xấu và là đối tượng đang có tiền án, tiền sự. Bị cáo không lấy đó là bài học kinh nghiệm để rèn luyện bản thân trở thành con người làm ăn lương thiện mà lại tiếp tục lao vào con đường phạm tội. Bị cáo đã dùng những thủ đoạn gian dối sảo quyệt để đánh lừa phía gia đình bị hại được minh chứng qua hành vi của bị cáo, như bị cáo nói với phía gia đình bị hại: “Xe bị C an giữ, hẹn mai nộp phạt và lấy xe ra, hôm đó không phải cháu điều khiển mà là bạn của cháu điều khiển nên phải đợi bạn đến mới nộp phạt và xin xe ra được…”. Điều đó chứng tỏ ý thức chấp hành pháp luật của bị cáo là rất kém. Kể từ sau khi phạm tội cho đến nay bị cáo chưa khắc phục hậu quả cho phía gia đình bị hại. Bị cáo phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm và phạm tội đối với người dưới 16 tuổi được quy định tại điểm h, i khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên tòa khai báo thành khẩn nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[5]. Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị hại theo quy định của pháp luật.
[6]. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[7]. Về án phí: Bị cáo thuộc diện hộ nghèo nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: Khoản 1 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h, i khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 56 Bộ luật hình sự.
- Điều 61; Điều 62; Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.
Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn T, phạm tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Xử phạt: Lê Văn T, 24 (Hai mươi bốn) tháng tù, cộng với 07 (Bảy) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” của Bản án số 22/2021/HSST ngày 23/11/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa, tổng cộng là 31 (Ba mươi mốt) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt của bản án trước được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án kể từ ngày 14/01/2022.
Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Lê Văn T phải có trách nhiệm khắc phục hậu quả bồi thường thiệt hại chiếc xe Honda Wave, BKS: 36B7-xxxxx màu xanh, đen, bạc cho người bị hại cháu Nguyễn Anh T, trị giá bằng tiền là 14.000.000đ (Mười bốn triệu đồng).
Về án phí: Bị cáo thuộc diện hộ nghèo nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo, bị hại, vắng mặt người làm chứng. Bị cáo Lê Văn T và bị hại có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Trường hợp bản án, Quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các Điều 6; Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự.
Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 18/2022/HS-ST
Số hiệu: | 18/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Sầm Sơn - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 04/04/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về