Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 174/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 174/2023/HS-PT NGÀY 30/05/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Vào ngày 30 tháng 5 năm 2023 tại Trụ sở, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 34/TLPT-HS ngày 17 tháng 01 năm 2023 đối với bị cáo Hoàng Thị Thiên H về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 104/2022/HS-ST ngày 14/12/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.

Bị cáo có kháng cáo:

HOÀNG THỊ THIÊN H, sinh năm 1991 tại thành phố Hà Nội. Nơi cư trú: thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Song T (sinh năm 1963) và bà Lê Thị H (sinh năm 1967); có chồng là Nguyễn Đình V và có 02 con (con lớn sinh năm 2018, con nhỏ sinh ngày 19/7/2020); tiền án, tiền sự: không; bị cáo hiện đang thực hiện Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo Hoàng Thị Thiên H: Luật sư Hồ Văn H - Công ty Luật TNHH W, thuộc Đoàn luật sư thành phố Đà Nẵng, bào chữa theo yêu cầu của Tòa án (vắng mặt).

- Người bị hại:

1. Bà Phan Thị H, sinh năm 1986; Nơi cư trú: thành phố Đà Nẵng (vắng mặt).

2. Bà Trần Thị T, sinh năm 1985; Nơi cư trú: thành phố Đà Nẵng (vắng mặt).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

2. Ông Nguyễn Đình V, sinh năm 1959; Nơi cư trú: tỉnh Nghệ An (vắng mặt).

* Người làm chứng: Ông Chiêm Văn T (sinh năm 1973) và bà Đào Thị Kim T (sinh năm 1977); Cùng trú tại: tỉnh Gia Lai (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nhà đất tại thửa đất số 167, tờ bản đồ số 106 ở địa chỉ số 6-8 C 4, lô 6-8 C1, khu C (giai đoạn 1), khu dân cư Nam cầu C, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng theo GCNQSDĐ số CU 980931 đã được vợ chồng Hoàng Thị Thiên H và Nguyễn Đình V ký Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất (nhà) cho ông bà Chiêm Văn T và Đào Thị Kim T vào ngày 27/7/2020.

Đến khoảng đầu tháng 8/2020, do cần tiền sử dụng cá nhân, Hoàng Thị Thiên H nói với bà Trần Thị T nhà đất tại địa chỉ nêu trên vẫn thuộc sở hữu của vợ chồng H, đang cầm cố cho người khác, muốn bán lại với giá 3.500.000.000 đồng và gửi hình ảnh GCNQDĐ số CU 980931 qua zalo cho bà T. Tin tưởng thông tin H đưa ra, bà T liên hệ với bà Phan Thị H để rủ bà H cùng chung mua nhà đất của H.

Ngày 11/8/2020, tại quán cà phê trên đường Võ Nguyên Giáp, thành phố Đà Nẵng, H gặp bà T và bà H để thỏa thuận mua bán nhà đất nói trên. Bà H và bà T đồng ý mua với giá 3.500.000.000 đồng và thống nhất đặt cọc trước cho H 600.000.000 đồng, trong vòng 01 tháng sẽ đi công chứng, số tiền còn lại sẽ giao cho H sau khi làm thủ tục công chứng chuyển nhượng nhà đất. Bà H đã chuyển vào tài khoản số 19025460537014 mang tên Hoàng Thị Thiên H tại Ngân hàng T số tiền 600.000.000 đồng, nội dung chuyển tiền ghi: “CK cọc nhà em H”.

Cùng ngày, H viết một “Hợp đồng đặt cọc” ghi ngày 11/8/2020 có nội dung H bán cho bà Phan Thị H nhà đất tại thửa đất số 167, tờ bản đồ số 106 tại địa chỉ số 6-8 C 4, lô 6-8 C1, khu C (giai đoạn 1), khu dân cư Nam cầu C, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng, GCNQSDĐ số CU 980931 với giá 3.500.000.000 đồng, đã đặt cọc 600.000.000 đồng. Sau 01 tháng H không đi công chứng chuyển nhượng nhà đất trên cho bà H, bà T và H lại tiếp tục gian dối xin gia hạn đến ngày 11/12/2020 làm thủ tục công chứng, đồng thời thỏa thuận trả lãi cho bà H do chưa thực hiện được giao dịch trong vòng 04 tháng (từ tháng 8- tháng 12) là 100.000.000 đồng và H viết lại hợp đồng đặt cọc ghi ngày 11.8.2020 với nội dung chuyển nhượng nhà đất trên cho bà H với giá 3.500.000.000 đồng, nhận cọc của bà H 700.000.000 đồng. H giao hợp đồng này cho bà T để bà T giao lại cho bà H làm tin.

Đến ngày 11/12/2020, bà H và bà T tìm gặp H để làm thủ tục công chứng chuyển nhượng nhà đất nhưng không liên lạc được và H không có ở địa phương, qua tìm hiểu tại Phòng công chứng bà T và bà H mới biết nhà đất này vợ chồng H đã chuyển nhượng cho người khác trước khi H nhận cọc của bà H, bà T nên bà H gửi đơn tố cáo đến Cơ quan Công an.

Tại Bản kết luận giám định số 90/GĐ-TL ngày 22/7/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Đà Nẵng kết luận: Chữ viết, chữ ký mang tên Hoàng Thị Thiên H trên tài liệu cần giám định ký hiệu A so với chữ viết, chữ ký của Hoàng Thị Thiên H trên các tài liệu mẫu so sánh ký hiệu từ M1 đến M3 (trừ chữ ký trên tài liệu mẫu so sánh ký hiệu M1) do cùng một người viết và ký ra.

Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo H đã trả cho bị hại Phan Thị H số tiền 10.000.000 đồng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 104/2022/HS-ST ngày 14/12/2022, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã quyết định:

1. Tuyên bố bị cáo Hoàng Thị Thiên H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: bị cáo Hoàng Thị Thiên H 07 (Bảy) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt giam thi hành án.

2.Về trách nhiệm dân sự: căn cứ Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 589 Bộ luật Dân sự: buộc bị cáo Hoàng Thị Thiên H phải bồi thường cho bà Phan Thị H số tiền 590.000.000 đồng.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bên có nghĩa vụ chậm bồi thường thì phải chịu thêm khoản tiền lãi suất đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất chậm trả được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật Dân sự; Nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 26/12/2022, bị cáo Hoàng Thị Thiên H làm đơn kháng cáo nội dung: kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm vì bị cáo không phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Hoàng Thị Thiên H vẫn giữ nguyên kháng cáo.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Tòa án cấp sơ thẩm xác định hành vi của bị cáo là có thật trong quá trình đặt cọc. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo kêu oan của bị cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Ý kiến của Luật sư bào chữa cho bị cáo Hoàng Thị Thiên H: tại phiên tòa phúc thẩm, Luật sư bào chữa cho bị cáo H vắng mặt nhưng có gửi bản luận cứ bào chữa với nội dung đề nghị Hội đồng xét xử nhận định đây là hợp đồng đặt cọc, bị cáo H không có ý thức chiếm đoạt 600 triệu đồng của bị hại. Bị cáo đang bị bệnh hiểm nghèo (ung thư), đang nuôi con nhỏ và thiết tha miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Căn cứ vào hồ sơ vụ án, các chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, luận cứ bào chữa của luật sư, lời khai của bị cáo và kết quả tranh tụng tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời khai nhận của bị cáo, người bị hại và kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử xét thấy:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Đà Nẵng quá trình điều tra, truy tố và xét xử ở cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà sơ thẩm, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng quy định.

Ngày 21/4/2023, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng mở phiên tòa xét xử vụ án nhưng người bị hại và người làm chứng vắng mặt không có lý do vì vậy Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa theo quy định của pháp luật.

[2]. Về tội danh:

[2.1]. Căn cứ các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử có đủ cơ sở xác định: Vào ngày 27/7/2020, Hoàng Thị Thiên H đã ký hợp đồng chuyển nhượng cho vợ chồng ông Chiêm Văn T và bà Đào Thị Kim T đối với nhà và đất tại địa chỉ số 6-8 C 4, lô 6-8 C1, khu C (giai đoạn 1), khu dân cư Nam cầu C, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng. Sau khi H đã chuyển nhượng nhà đất cho người khác, đến ngày 11/8/2020 bị cáo đưa ra thông tin với chị Phan Thị H rằng nhà đất trên vẫn thuộc quyền sở hữu của mình, hiện H đang cầm cố cho người khác, mục đích để nhận 600.000.000 đồng tiền đặt cọc và cam kết sau 01 tháng sẽ chuyển nhượng cho bà Phan Thị H, bà Trần Thị T với giá 3.500.000.000 đồng. Do không có nhà đất để chuyển nhượng, H lại tiếp tục xin gia hạn đến tháng 12 mới đi công chứng chuyển nhượng được và đề xuất với chị H, T tính trả lãi đối với 600.000.000 đồng tiền cọc là 100.000.000 đồng trong thời gian 4 tháng và đồng ý viết lại hợp đồng đặt cọc với số tiền nhận là 700.000.000 đồng. Sau đó, H đã cắt đứt liên lạc với bị hại và bỏ đi khỏi địa phương nhằm chiếm đoạt tài sản.

[2.2]. Căn cứ lời khai của bị cáo Hoàng Thị Thiên H phù hợp lời khai của vợ chồng ông Chiêm Văn T và bà Đào Thị Kim T, phù hợp với kết quả xác minh nhà đất tại UBND phường H thể hiện: Ngày 27/7/2020, vợ chồng H đã công chứng chuyển nhượng nhà đất trên cho vợ chồng ông T. Xét thấy, tại thời điểm H nhận tiền cọc 600.000.000 đồng của người bị hại (ngày 11/8/2020) thì nhà và đất tại địa chỉ số 6-8 C 4, lô 6-8 C1, khu C (giai đoạn 1), khu dân cư Nam cầu C, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng đã không còn thuộc quyền sở hữu, sử dụng của Hoàng Thị Thiên H. Nhưng H vẫn đưa ra thông tin cho chị H là nhà và đất đang thuộc sở hữu của mình, hiện đang cầm cố cho người khác và bị cáo đồng ý bán cho chị H, chị T với giá 3.500.000.000 đồng đều là thông tin gian dối nhằm mục đích tạo niềm tin để chị Phan Thị Hoà đưa cho H số tiền 600.000.000 đồng. Đây là tình tiết thuộc mặt khách quan của tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại Điều 174 của Bộ luật Hình sự. Do đó, hành vi của Hoàng Thị Thiên H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bị cáo Hoàng Thị Thiên H 07 (Bảy) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3]. Xét kháng cáo của bị cáo Hoàng Thị Thiên H:

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo H không thừa nhận chiếm đoạt số tiền 600 triệu đồng tiền đặt cọc mua đất. Bị cáo cho rằng toàn bộ giao dịch giữa bị cáo và chị H, chị T là giao dịch vay mượn dân sự, số tiền 100.000.000 đồng chính là số tiền lãi của giao dịch vay mượn. Tuy nhiên, tại chứng từ chuyển tiền do bà H chuyển vào số tài khoản của Hoàng Thị Thiên H có nội dung thể hiện “chuyển tiền đặt cọc nhà em H” (Bút lục 15); tại các bản tự khai H lại thừa nhận nhà đất nêu trên H đã bán cho vợ chồng ông T; số tiền 100.000.000 đồng là số tiền lãi do H chậm ra công chứng 4 tháng so với cam kết. Đến tháng 12, vì không có nhà đất để chuyển nhượng nên H tiếp tục đưa ra thông tin gian dối là ghi thêm số tiền lãi 100 triệu đồng. Thực tế, việc ghi thêm số tiền lãi cũng chỉ là thủ đoạn gian dối nhằm kéo dài thời gian, tránh việc bị phát hiện. Mặt khác, trong quá trình điều tra bị cáo H đã khai nhận: “vì lúc đó tôi cần tiền để trả nợ bên ngoài nên tôi đã lừa chị H” (BL 57); “nói dối với chị H đất này do vợ chồng sở hữu” (BL 59). Như vậy, khi bị cáo H làm hợp đồng đặt cọc mua bán đất với chị H theo Giấy đặt cọc ngày 11/8/2020 thì tại thời điểm này H không có quyền sử dụng đất đối với thửa đất tại địa chỉ số 6-8 C 4, lô 6-8 C1, khu C (giai đoạn 1), khu dân cư Nam cầu C, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng để chuyển nhượng. Tòa án cấp sơ thẩm kết luận bị cáo Hoàng Thị Thiên H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là đúng pháp luật. Do đó, nội dung và yêu cầu kháng cáo kêu oan của Hoàng Thị Thiên H là không có cơ sở nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận.

[4]. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hoàng Thị Thiên H. Đề nghị này phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[5]. Về án phí hình sự phúc thẩm: do kháng cáo bị cáo Hoàng Thị Thiên H không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[6]. Các quyết định khác còn lại của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm a khoản 1 của Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hoàng Thị Thiên H, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 104/2022/HS-ST ngày 14/12/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.

1. Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: bị cáo Hoàng Thị Thiên H 07 (Bảy) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt giam thi hành án.

2. Về án phí hình sự phúc thẩm: bị cáo Hoàng Thị Thiên H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

71
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 174/2023/HS-PT

Số hiệu:174/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về