Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 17/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH XUÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 17/2024/HS-ST NGÀY 25/01/2024 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Trong ngày 25 tháng 01 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận T thành phố H, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 274/2023/HSST ngày 19/12/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 451/2023/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 12 năm 2023, và quyết định hoãn phiên toà số 12/2024/HSST-QĐ ngày 17/01/2024 đối với bị cáo:

Vũ Anh Đ - sinh ngày 10/3/1982, tại N; giới tính: Nam. Nơi thường trú: Phố Đại Phong, phường Nam Bình, thành phố N, tỉnh N. Nơi cư trú: Số 38B ngõ 5 đường 2, phố Đại Phong, phường Nam Bình, thành phố N, tỉnh N. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Là Đảng viên sinh hoạt tại Chi bộ phố Đại Phong, thuộc Đảng bộ phường N, thành phố N (đã bị đình chỉ sinh hoạt Đảng ngày 27/12/2023);Trình độ văn hóa: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Vũ Đoàn T; con bà: Nguyễn Thị L; vợ: Nguyễn Thị C; có 02 con (con lớn sinh năm 2008; con nhỏ sinh năm 2016). Tiền án: không; Tiền sự: Không. Danh chỉ bản số: 490 lập ngày 13/11/2023 tại Công an quận T, H. Bị cáo hiện đang tại ngoại, áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú (Có mặt tại phiên tòa).

- Bị hại: Ông Tăng Bá P, sinh năm 1984, hiện trú tại: Số 35 ngõ 40 T, phường K, quận T, H.

(Có đơn xin vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Năm 2018 ông Tăng Bá P là Giám đốc Công ty cổ phần dịch vụ an toàn môi trường và hóa chất Việt Nam. Khoảng tháng 6/2019 Công ty TNHH một thành viên Công nghệ và môi trường Hà Dũng có liên hệ với ông P để thực hiện dịch vụ quan trắc môi trường xét nghiệm mẫu nước, khí thải không khí của một số doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh N. Ông P đã ký kết hợp đồng với Công ty trên để thực hiện các dịch vụ quan trắc môi trường. Tháng 10 năm 2020 ông P bị Cơ quan CSĐT- Công an tỉnh N triệu tập vì liên quan đến sai phạm của Công ty TNHH một thành viên Công nghệ và môi trường Hà Dũng. Do cần tiền tiêu sài nên Đ đã nảy sinh ý định chiếm đoạt tiền của ông P. Qua người bạn là Đỗ Văn A, ông P có quen biết Vũ Anh Đ (chú họ An), Đ giới thiệu đang công tác tại Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy- Công an tỉnh N có nhiều mối quan hệ nên có khả năng giúp đỡ ông P không bị khởi tố. Đ bịa ra việc đã liên hệ được với người giúp P, để P tin tưởng giao tiền. Đ đưa số tài khoản của Đ yêu cầu ông P chuyển tổng cộng số tiền 220.000.000 đồng vào tài khoản của Đ để lo công việc. Do tin tưởng Đ, tại số 35 ngõ 40 Tô Vĩnh Diện, Khương Trung, T, H, ông P đã chuyển 03 lần cho Đ (lần 1: Ngày 08/12/2020 chuyển 100.000.000 đồng; lần 2: ngày 09/12/2020 chuyển 100.000.000 đồng; lần 3: ngày 15/12/2020 chuyển 20.000.000 đồng và đều chuyển vào số tài khoản 3300205127230, Ngân hàng A mang tên Vũ Anh Đ). Tuy nhiên ngày 12/01/2021 ông P vẫn bị Cơ quan CSĐT- Công an tỉnh N khởi tố và bắt tạm giam về tội “Giả mạo trong công tác” và tội “Làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức”. Tòa án nhân dân tỉnh N xử phạt 39 tháng tù về 02 tội trên. Ông P nhiều lần liên lạc với Đ để đòi lại tiền nhưng Đ trốn tránh không trả nên ông P đã gửi đơn tố giác Đ đến cơ quan Công an.

Quá trình điều tra xác định: Vũ Anh Đ nguyên là cán bộ của Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy – Công an tỉnh N và đã xuất ngũ từ ngày 01/6/2020.

Ông Tăng Bá P giao nộp 01 vi bằng nội dung tin nhắn giữa ông P và Đ liên quan đến việc chạy án.

Tại cơ quan điều tra, Vũ Anh Đ đã khai nhận hanh vi phạm tội của minh như trên. Sau khi nhận số tiền 220.000.000 đồng của ông Tăng Bá P, Đ không liên hệ với ai để giúp P xử lý vụ việc, số tiền này Đ đã tiêu sài cá nhân hết. Hiện Đ đã khắc phục hậu quả trả lại toàn bộ số tiền trên cho ông P; ông P có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo Đ.

Tại bản cáo trạng số 269/CT-VKS ngày 30/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận T, thành phố H đã truy tố bị cáo Vũ Anh Đ về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 3 Điều 174 BLHS.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận T sau khi phân tích toàn bộ tình tiết, nội dung vụ án, vẫn giữ nguyên quan điểm theo cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 3 Điều 174; điểm b, s, v khoản 1, và khoản 2 Điều 51; Điều 54, và Điều 65 Bộ luật hình sự, tuyên phạt bị cáo 03 (ba) năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời hạn thử thách 05 (năm) năm kể từ ngày tuyên án. Do bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng phạt tiền đối với bị cáo.

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ và kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Vũ Anh Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định:

Do cần tiền chi tiêu cá nhân, Vũ Anh Đ đã có hành vi gian dối, nói với ông Tăng Bá P mình đang là cán bộ phòng Cảnh sát điều tra- Công an tỉnh N và lo được việc cho P dưới hình thức chạy án. Tin tưởng Đ nên từ ngày 08/12/2020 đến ngày 15/12/2020, ông P đã 03 lần đưa tiền cho bị cáo Đ, với tổng số tiền 220.000.000 đồng tại số 35 ngõ 40 T, K, T, H để lo việc. Sau khi nhận tiền bị cáo đã chi tiêu cá nhân hết.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an cho xã hội. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 3 Điều 174 BLHS nước CHXHCN Việt Nam.

Bị cáo là người đã trưởng thành, có sức khỏe, đã từng công tác trong cơ quan pháp luật, am hiểu pháp luật, nhưng không chịu tu dưỡng rèn luyện bản thân, thích hưởng thụ nên đã lao vào con đường phạm tội. Chính vì vậy cần phải có một mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

Tuy nhiên khi lượng hình, Hội đồng xét xử xem xét, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải; lần đầu bị đưa ra truy tố, xét xử; sau khi sự việc xảy ra bị cáo đã cùng gia đình khắc phục hậu quả cho người bị hại; người bị hại cũng có đơn đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Mặt khác, bị cáo có nhân thân tốt, trong quá trình công tác trong lực lượng vũ trang, đã nỗ lực phấn đấu được tặng thưởng Huân chương chiến sĩ vẻ vang hạng nhì, hạng 3; Giấy khen của Giám đốc Cong an tỉnh N vì đã có thành tích xuất sắc trong công tác đầu tranh phòng chống tội phạm; bị cáo có nơi cư trú rõ ràng. Đối chiếu với các quy định của pháp luật bị cáo được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s, v khoản 1 và khoản 2- Điều 51 - Bộ luật hình sự. Từ những phân tích trên thấy rằng đủ điều kiện để áp dụng Điều 54 và Điều 65- Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, cho bị cáo được cải tạo ngoài xã hội, để có cơ hội sửa chữa sai lầm, và có điều kiện chăm sóc gia đình, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

Đối với đơn đề nghị mời Luật sư của ông Tăng Bá P, mời Công ty Luật TNHH M- Đoàn luật sư thành phố H tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông đề ngày 22/12/2023; (Toà án nhân dân quận T nhận đơn qua đường bưu chính ngày 26/12/2023), tuy nhiên, ngày 28/12/2023, ông P đã có đơn đề nghị rút yêu cầu mời luật sư.

Từ những phân tích trên Hội đồng xét xử thấy rằng Viện kiểm sát nhân dân quận T truy tố bị cáo Vũ Anh Đ về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 3 Điều 174- Bộ luật hình sự là có căn cứ pháp luật.

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an quận T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận T, kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Vũ Anh Đ đã bồi thường, hoàn trả cho ông Tăng Bá P số tiền 220.000.000 đồng bị cáo đã chiếm đoạt. Ông P đã nhận đầy đủ số tiền 220.000.000 đồng, không có yêu cầu gì khác. Ông P có đơn đề nghị xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với Đ.

Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có thu nhập không định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo.

Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo, bị hại, được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Bởi các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Vũ Anh Đ phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

2. Áp dụng:

- Điểm a khoản 3 Điều 174; điểm b, s, v khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 54, và Điều 65 - Bộ luật hình sự.

- Điều 331, 333- Bộ luật tố tụng hình sự.

- Điều 3, khoản 1Điều 21, Điều 23; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án và danh mục mức án phí, ban hành kèm theo.

Xử phạt: Bị cáo Vũ Anh Đ 03 (ba) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sảnnhưng cho hưởng án treo, thời hạn thử thách 05 (năm) năm kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (25/01/2024).

Giao bị cáo về Ủy ban nhân dân phường Nam Bình thành phố N, tỉnh N để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách của bản án.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92- Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên theo quy định của pháp luật về Thi hành án hình sự, thì Tòa án có thể buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

4 Về án phí và quyền kháng cáo:

4.1. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm, và có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

4.2. Bị hại- ông Tăng Bá P được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

65
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 17/2024/HS-ST

Số hiệu:17/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Thanh Xuân - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về