Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 162/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VĨNH YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 162/2021/HS-ST NGÀY 24/12/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 164/2021/TLST-HS ngày 08 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 165/2021/QĐXXST - HS ngày 16 tháng 11 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 98/2021/HSST-QĐ ngày 30 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo:

Chu Mạnh H, sinh ngày 11/01/1993 tại Phú Thọ; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Khu x, xã Đ, huyện T, tỉnh Phú Thọ; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Chu Văn T và bà Phạm Thị Thúy L; có vợ là Hà Thị TH (Hiện đang đi xuất khẩu lao động tại Myanma) và 01 con còn nhỏ sinh năm 2017; tiền sự: Không; tiền án: 03, gồm:

+ Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 27/2015/HSST ngày 23/4/2015 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ xử phạt Chu Mạnh H 8 triệu đồng về tội Đánh bạc. H chấp hành nộp phạt xong vào tháng 9/2015, thi hành xong án phí hình sự tháng 9/2015 (đến nay chưa được xóa án tích theo quy định).

+ Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 35/2016/HSST ngày 30/5/2016 của Tòa án nhân dân huyện Đoan H , tỉnh Phú Thọ xử phạt Chu Mạnh H 6 tháng tù về tội Đánh bạc (số tiền sử dụng vào việc đánh bạc là 700.000đ). H chấp hành án xong ra trại ngày 16/10/2016. Về án phí hình sự H thi hành xong vào tháng 11/2016 (đến nay chưa được xóa án tích theo quy định).

+ Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 25/2018/HSST ngày 12/7/2018 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ xử phạt Chu Mạnh H 8 tháng tù về tội Đánh bạc. H chấp hành án xong ra trại ngày 23/4/2020. Thi hành xong án phí vào tháng 10/2018 (đến nay chưa được xóa án tích theo quy định).

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 26/8/2021 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Vĩnh Phúc, (có mặt).

Bị hại:

+ Chị Lê Thị Thùy L, sinh năm 1995; trú tại: Thôn D, xã Ngũ Kiên, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc, (vắng mặt);

+ Anh Nguyễn Đức A , sinh năm 2002; trú tại: Thôn V, xã Hoàng Lâu, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc, (vắng mặt);

+ Anh Trần Minh N , sinh năm 1973; trú tại: Số XX, đường Nguyễn Văn Linh, phường Liên Bảo, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, (vắng mặt);

+ Chị Tống Thị Thu H , sinh năm 1993; trú tại: Tổ dân phố X, phường Khai Quang, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, (vắng mặt);

+ Chị Phạm Thị Q, sinh năm 1987; trú tại: Tổ dân phố Y, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, (vắng mặt);

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Anh Phan Văn H, sinh năm 1983; trú tại: Thôn Phú N, xã Kim Xá, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc, (vắng mặt)

+ Chị Phạm Thị Thanh T, sinh năm 1990; trú tại: Số X đường Tôn Đức Thắng, phường Khai Quang, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, (vắng mặt).

+ Chị Nguyễn Thị Thanh T1, sinh năm 1999; trú tại: Thôn T, xã Hợp Lý, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc, (vắng mặt).

+ Anh Tống Thế A1, sinh năm 1992; trú tại: Tổ dân phố X, phường Khai Quang, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, (vắng mặt).

+Anh Nguyễn Văn T1, sinh năm 1979; trú tại: Thôn V, xã Hoàng Lâu, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc, (vắng mặt).

+ Anh Nguyễn Đức K , sinh năm 1994; trú tại: Thôn D, xã Ngũ Kiên, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc, (vắng mặt).

-Người làm chứng: Anh Nguyễn Hữu Đ, anh Vũ Thế D , đều vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do không có nghề nghiệp, nguồn thu nhập ổn định và cần tiền tiêu xài cá nhân nên Chu Mạnh H đã nảy sinh ý định lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. H dùng thủ đoạn liên lạc với những người bán điện thoại di động để thỏa thuận mua bán điện thoại nhưng thực tế H không có tiền để mua điện thoại, việc thỏa thuận giá cả, hình thức mua bán điện thoại chỉ là giả tạo nhằm mục đích để người bán điện thoại tin tưởng H sẽ mua điện thoại thật và giao tài sản cho H . Khi nhận được điện thoại từ người bán, H sẽ tạo lập một giao dịch giả tạo trên ứng dụng ViettelPay chuyển tiền thanh toán đến số tài khoản của người bán điện thoại nhưng thực tế H không có tiền trong tài khoản. Sau đó H tìm cách bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản. Với phương thức, thủ đoạn như trên, từ tháng 12/2020 đến tháng 3/2021 H đã thực hiện 05 vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. Cụ thể:

Vụ thứ nhất: Ngày 19/12/2020, Chu Mạnh H sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5S màu bạc liên lạc qua tài khoản Facebook với chị Lê Thị Thùy L, sinh năm 1995 ở xã Ngũ Kiên, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc để hỏi mua 02 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy Note 9, chị L đồng ý và thống nhất với H về giá bán 02 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy Note 9 với giá 13.400.000đ (6.700.000đ/1 chiếc điện thọai di động). Sau đó, H hẹn gặp chị L tại Bệnh viện Hữu nghị Lạc Việt thuộc xã Định Trung, thành phố Vĩnh Yên để giao máy và trả tiền. Khoảng gần 19 giờ cùng ngày 19/12/2020 chị L đi cùng chồng là anh Nguyễn Đức K , sinh năm 1994 đến cổng Bệnh viện Hữu nghị Lạc Việt để gặp H . Khi gặp nhau, H nói sẽ chuyển khoản cho chị L 10.000.000đ, số tiền còn thiếu là 3.400.000đ thì H sẽ về nhà lấy để trả cho chị Linh, chị L đồng ý. Sau đó, H tạo lập một giao dịch giả tạo trên ứng dụng ViettelPay từ số tài khoản 19033753639012 Ngân hàng Thương mại cổ phần Kỹ thương, Chi nhánh Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc của H đến số tài khoản 108894446999 mang tên Lê Thị Thùy L tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam, chi nhánh Vĩnh Phúc số tiền 10.000.000đ, tuy nhiên thực tế H không có tiền để thực hiện giao dịch này. H đăng nhập vào phần lịch sử giao dịch trên ứng dụng Viettel Pay, phía bên ngoài giao dịch sẽ hiển thị dòng chữ “Thất bại” tuy nhiên khi ấn vào giao dịch này, hệ thống Viettel Pay sẽ chỉ hiển thị nội dung chuyển tiền thành công số tiền 10.000.000đ và đưa cho chị L xem giao dịch chuyển tiền thành công, mặc dù chị L chưa nhận được tiền chuyển vào tài khoản nhưng H nói do khác hệ thống ngân hàng, có thể ngày mai chị L mới nhận được tiền. Do vậy, Chị Linh tin tưởng H đã chuyển tiền nên giao 02 điện thoại di động cho Chu Mạnh H . Sau đó, H bảo chị L đi đến nhà H tại số nhà 34 đường Trần Phú, phường Liên Bảo, thành phố Vĩnh Yên để lấy 3.400.000đ còn thiếu đưa trả cho chị Linh. Chị L và anh Kiên đưa H đến số nhà 34 đường Trần Phú, phường Liên Bảo chờ H ở đầu ngõ, tuy nhiên H lợi dụng chị L không để ý đã bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản. Sau khi chiếm đoạt được 02 điện thoại nêu trên, Chu Mạnh H đã bán cho anh Phan Văn H, sinh năm 1983, ở xã Kim Xá, huyện Vĩnh Tường là chủ cửa hàng điện thoại di động Anh Vũ Store, địa chỉ: số 122 đường Tôn Đức Thắng, phường Khai Quang, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc với giá 10.000.000đ. Số tiền này, H đã tiêu xài cá nhân hết.

Ngày 20/12/2020, chị Lê Thị Thùy L có đơn trình báo tới Công an xã Định Trung, thành phố Vĩnh Yên về việc bị Chu Mạnh H lừa đảo chiếm đoạt 02 chiếc điện thoại di động Samsung Galaxy Note 9 (1 chiếc màu đồng và 01 chiếc màu tím, đều đã qua sử dụng). Trị giá thiệt hại về tài sản là 13.400.000đ.

Ngày 30/3/2021 Cơ quan CSĐT Công an thành phố Vĩnh Yên có văn bản số 61 yêu cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND thành phố Vĩnh Yên định giá đối với 02 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy Note 9 đều đã qua sử dụng (định giá qua hồ sơ).

Tại kết luận định giá số 66 ngày 29/4/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND thành phố Vĩnh Yên kết luận: “01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy Note 9 màu đồng, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy Note 9 màu tím đều đã cũ, đã qua sử dụng, định giá qua hồ sơ, mỗi chiếc điện thoại có trị giá 5.000.000đ. Tổng trị giá thiệt hại đối với 02 chiếc điện thoại di động là 10.000.000đ ”.

Cơ quan điều tra Công an thành phố Vĩnh Yên tiến hành xác minh, sao kê lịch sử giao dịch tài khoản số 108894446999 của chị Lê Thị Thùy L tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam Chi nhánh Vĩnh Phúc: Xác định ngày 19/12/2020 không có giao dịch nào chuyển khoản số tiền 10.000.000 đồng vào tài khoản của chị Linh Số tiền 10.000.000đ, H có được từ việc bán 02 chiếc điện thoại di động chiếm đoạt của chị Linh, H đã tiêu sài cá nhân hết.

Vụ thứ hai: Với thủ đoạn tương tự, ngày 23/12/2020, Chu Mạnh H một mình đi đến cửa hàng mua bán điện thoại di động Quang Quế, địa chỉ: tổ dân phố Làng Bầu, phường Liên Bảo, thành phố Vĩnh Yên. Tại đây, H gặp chị Phạm Thị Q, sinh năm 1987 ở KHC 15, phường Liên Bảo, thành phố Vĩnh Yên là chủ cửa hàng, H đặt vấn đề mua 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S Plus màu vàng, chị Q đồng ý và thống nhất giá bán điện thoại là 4.000.000đ. Thực tế H không có tiền nhưng H đề nghị thanh toán qua chuyển khoản cho chị Quế. Sau đó, H truy cập ứng dụng Viettel Pay, tạo lập một giao dịch giả tạo chuyển số tiền 4.000.000đ cho chị Phạm Thị Q qua ứng dụng ViettelPay từ số tài khoản 19033753639012 Ngân hàng Thương mại cổ phần Kỹ thương, Chi nhánh Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc của H đến số tài khoản 107868400598 mang tên Phạm Thị Q tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương, Chi nhánh Vĩnh Phúc để mua 01 điện thoại di động Iphone 6S Plus của chị Quế. Thực tế H không thao tác giao dịch chuyển tiền trên do tài khoản của H không có tiền. H đăng nhập vào phần lịch sử giao dịch trên ứng dụng Viettel Pay, phía bên ngoài giao dịch sẽ hiển thị dòng chữ “Thất bại” tuy nhiên khi ấn vào giao dịch này, hệ thống Viettel Pay sẽ chỉ hiển thị nội dung chuyển tiền 4.000.000đ. H đưa cho chị Q xem giao dịch chuyển tiền, mặc dù chị Q chưa nhận được tiền chuyển vào tài khoản nhưng thấy H nói do khác hệ thống ngân hàng nên giao dịch chuyển tiền bị chậm thì chị Q tin tưởng và giao chiếc điện thoại trên cho H . Sau khi đã chiếm đoạt được 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S Plus của chị Quế, Chu Mạnh H đã bán cho anh Phan Văn H, sinh năm 1983, ở xã Kim Xá, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc là chủ cửa hàng điện thoại di động Anh Vũ Store, địa chỉ: số 122 đường Tôn Đức Thắng, phường Khai Quang, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc với giá 3.000.000đ, H đã tiêu sài cá nhân hết nên không thu hồi được.

Ngày 23/12/2020, chị Phạm Thị Q có đơn trình báo tới Công an phường Liên Bảo, thành phố Vĩnh Yên về việc bị Chu Mạnh H lừa đảo chiếm đoạt 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S Plus màu vàng đồng đã qua sử dụng. Trị giá thiệt hại về tài sản là 4.000.000đ.

Ngày 30/3/2021 Cơ quan CSĐT Công an thành phố Vĩnh Yên có văn bản số 60 yêu cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND thành phố Vĩnh Yên định giá đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S Plus màu vàng đã qua sử dụng (định giá qua hồ sơ).

Tại kết luận định giá số 65 ngày 29/4/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND thành phố Vĩnh Yên kết luận: “01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S Plus màu vàng đã cũ, đã qua sử dụng, định giá qua hồ sơ, có trị giá 3.000.000đ”.

Cơ quan điều tra Công an thành phố Vĩnh Yên tiến hành xác minh, sao kê lịch sử giao dịch tài khoản số 107868400598 của chị Phạm Thị Q tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam Chi nhánh Vĩnh Phúc: Xác định ngày 23/12/2020 không có giao dịch nào chuyển khoản số tiền 4.000.000 đồng vào tài khoản của chị Quế.

Vụ thứ ba: Ngày 06/3/2021, Chu Mạnh H sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5S màu bạc liên lạc qua tài khoản Facebook với anh Nguyễn Đức A , sinh ngày 25/6/2002 ở thôn Vỏ, xã Hoàng Lâu, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc để hỏi mua 02 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus màu đen của anh Đức A . Qua trao đổi, anh Đức A và H thống nhất về giá bán 02 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus với giá 7.400.000đ (3.700.000đ/1 chiếc điện thoại). H hẹn anh Đức A đến ngã 5 gốc Vừng gần siêu thị điện máy HC thuộc phường Liên Bảo, thành phố Vĩnh Yên để giao nhận điện thoại và thanh toán tiền. Khi gặp nhau, H được anh Đức A đưa 02 chiếc điện thoại di động để kiểm tra, H đề nghị thanh toán bằng hình thức chuyển khoản, anh Đức A đồng ý. Sau đó, H dùng điện thoại di động Iphone 7 Plus mà anh Đức A bán cho H để tạo lập một giao dịch giả tạo trên ứng dụng ViettelPay từ số tài khoản 19033753639012 Ngân hàng Thương mại cổ phần Kỹ thương, Chi nhánh Vĩnh Yên của H đến số tài khoản 42510001105205 mang tên Nguyễn Văn Tuấn, sinh năm 1979 ở thôn Vỏ, xã Hoàng Lâu, huyện Tam Dương (là bố đẻ của anh Đức Anh) tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển, chi nhánh Vĩnh Phúc số tiền 7.400.000đ, tuy nhiên thực tế H không có tiền để thực hiện giao dịch này. H đăng nhập vào phần lịch sử giao dịch trên ứng dụng Viettel Pay, phía bên ngoài giao dịch sẽ hiển thị dòng chữ “Thất bại” tuy nhiên khi ấn vào giao dịch này, hệ thống Viettel Pay sẽ chỉ hiển thị nội dung chuyển tiền 7.400.000đ thành công. H đưa điện thoại cho Đức A xem nội dung giao dịch và nói đã chuyển tiền rồi. Mặc dù chưa nhận được tiền vào tài khoản nhưng H nói với anh Đức A là do khác hệ thống ngân hàng nên có thể ngày mai mới nhận được tiền nên Đức Anh tin tưởng đã giao 02 chiếc điện thoại di động cho H . Sau khi chiếm đoạt được tài sản, H đã bán 02 chiếc điện thoại di động trên cho một người nam giới lái xe taxi (không rõ họ tên, địa chỉ, đặc đặc nhận dạng, biển số xe và hãng taxi) trên đường Chu Văn An, phường Liên Bảo, thành phố Vĩnh Yên được 5.000.000đ, số tiền này H đã tiêu xài cá nhân hết.

Ngày 07/3/2021, Anh Nguyễn Đức A có đơn trình báo tới Công an thành phố Vĩnh Yên về việc bị Chu Mạnh H lừa đảo chiếm đoạt 02 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus màu đen, đều đã qua sử dụng. Tổng trị giá thiệt hại về tài sản là 7.400.000đ .

Ngày 30/3/2021 Cơ quan CSĐT Công an thành phố Vĩnh Yên có văn bản số 62 yêu cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND thành phố Vĩnh Yên định giá đối với 02 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7Plus màu đen đều đã qua sử dụng (định giá qua hồ sơ).

Tại kết luận định giá số 67 ngày 29/4/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND thành phố Vĩnh Yên kết luận: “02 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7Plus màu đen đều đã cũ, đã qua sử dụng, định giá qua hồ sơ, mỗi chiếc điện thoại có trị giá 3.500.000đ. Tổng trị giá thiệt hại đối với 02 chiếc điện thoại di động là 7.000.000đ ” .

Cơ quan điều tra Công an thành phố Vĩnh Yên tiến hành xác minh, sao kê lịch sử giao dịch tài khoản số 42510001105205 mang tên Nguyễn Văn Tuấn, sinh năm 1979 ở thôn Vỏ, xã Hoàng Lâu, huyện Tam Dương (là bố đẻ của anh Đức Anh) tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển, Chi nhánh Vĩnh Phúc: Xác định ngày 06/3/2021 không có giao dịch nào chuyển khoản số tiền 7.400.000 đồng vào tài khoản của ông Tuấn.

Vụ thứ tư: Ngày 10/3/2021, Chu Mạnh H một mình đến gặp anh Trần Minh N , sinh năm 1973 là chủ cửa hàng mua bán điện thoại di động Minh Nghĩa, ở số XX đường Nguyễn Văn Linh, phường Liên Bảo, thành phố Vĩnh Yên. Tại đây, H đặt vấn đề bán 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S cho anh N , anh N kiểm tra điện thoại và đồng ý mua 02 điện thoại nêu trên của H với giá 5.000.000đ. H đề nghị anh N chuyển khoản số tiền 5.000.000đ đến tài khoản số 1903754639012 Ngân hàng Thương mại cổ phần Kỹ thương, Chi nhánh Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc của H . Sau đó, H đi về và đã tiêu xài hết số tiền trên, đến chiều cùng ngày do hết tiền tiêu xài nên H nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản là 02 điện thoại di động mà H vừa bán cho anh N với thủ đoạn tương tự như những lần trước là H sẽ tạo lập một giao dịch giả tạo trên ứng dụng ViettelPay chuyển tiền thanh toán đến số tài khoản của anh N rồi H tìm cách bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản. Sau đó, H một mình đi đến cửa hàng gặp anh N đề nghị mua lại 02 chiếc điện thoại di động gồm 01 chiếc Iphone 7 Plus màu đen và 01 chiếc Iphone 6S màu vàng mà H vừa bán cho anh N . H bảo anh N cho xem máy, thỏa thuận giá mua 02 điện thoại nêu trên là 5.000.000đ, kiểm tra máy xong sẽ chuyển khoản cho anh N để thanh toán, nhưng thực tế H không có tiền để mua điện thoại của anh N . Do trước đó, anh N đã mua điện thoại của H và chuyển khoản 5.000.000đ vào tài khoản của H nên anh N tin tưởng đưa điện thoại di động cho H kiểm tra. H giả vờ kiểm tra điện thoại và bảo anh N chờ một lúc nữa H sẽ chuyển tiền cho anh N . Lúc này, anh N tin tưởng để H ngồi một mình kiểm tra điện thoại còn anh N đi vào bên trong cửa hàng dọn dẹp. Thấy anh N đi vào trong nhà, H liền cầm 02 chiếc điện thoại nêu trên và bỏ đi mà không thanh toán chuyển khoản cho anh N . Sau đó, H đã bán 02 điện thoại nêu trên cho một người nam giới H không biết họ tên, địa chỉ ở đâu tại khu vực đường Chu Văn An, phường Liên Bảo, thành phố Vĩnh Yên (không nhớ tên đường) được 5.000.000đ tiêu xài cá nhân hết.

Ngày 10/3/2021, anh Trần Minh N có đơn trình báo tới Công an thành phố Vĩnh Yên về việc bị Chu Mạnh H lừa đảo chiếm đoạt 02 chiếc điện thoại di động gồm 01 chiếc nhãn hiệu Iphone 7 Plus màu đen và 01 chiếc nhãn hiệu Iphone 6S màu vàng, đều đã qua sử dụng. Tổng trị giá thiệt hại về tài sản là 5.000.000đ Ngày 30/3/2021 Cơ quan CSĐT Công an thành phố Vĩnh Yên có văn bản số 65 yêu cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND thành phố Vĩnh Yên định giá đối với 02 chiếc điện thoại di động gồm 01 chiếc nhãn hiệu Iphone 7Plus màu đen và 01 chiếc Iphone 6S màu vàng đều đã qua sử dụng (định giá qua hồ sơ).

Tại kết luận định giá số 50 ngày 29/4/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND thành phố Vĩnh Yên kết luận: “01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7Plus màu đen đã cũ, đã qua sử dụng, định giá qua hồ sơ có trị giá 5.000.000đ; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s màu vàng đã cũ, đã qua sử dụng, định giá qua hồ sơ có trị giá 1.500.000đ. Tổng trị giá thiệt hại đối với 02 chiếc điện thoại di động là 6.500.000đ ”.

Vụ thứ năm: Do có quen biết ngoài xã hội với anh Vũ Thế D , sinh năm 1993 ở Khu 1, xã Đ, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ là nhân viên bán hàng tại cửa hàng mua bán điện thoại di động Hoàng Long ở số nhà XX đường Tôn Đức Thắng, phường Khai Quang, thành phố Vĩnh Yên của chị Tống Thị Thu Hiền, sinh năm 1993, ở TDP Thanh Giã 1, phường Khai Quang, thành phố Vĩnh Yên. Ngày 12/3/2021, Chu Mạnh H sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Intel màu xanh gọi điện đến số hotline của cửa hàng Hoàng Long gặp Dương nói chuyện đặt vấn đề muốn mua 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 Plus màu đen, Dương liền đưa máy cho H nói chuyện với chị Hiền để thống nhất giá cả mua bán điện thoại là 6.600.000đ. Qua nói chuyện, H hẹn chị Hiền giao máy điện thoại di động cho H tại Bệnh viện Hữu nghị Lạc Việt, chị Hiền đồng ý. Sau đó, chị Hiền đưa điện thoại cho chị Nguyễn Thị Thanh T1, sinh năm 1999, ở thôn T , xã Hợp Lý, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc là nhân viên cửa hàng đi đến chỗ hẹn giao điện thoại cho H . Chị T đến gặp H tại Bệnh viện Hữu nghị Lạc Việt, xã Định Trung, thành phố Vĩnh Yên và đưa cho H kiểm tra điện thoại. H sử dụng chiếc điện thoại này, đăng nhập vào hệ thống Viettel Pay, tạo lập một giao dịch chuyển tiền giả tạo số tiền 6.300.000đ từ tài khoản 19033753639012 Ngân hàng Thương mại cổ phần Kỹ thương, Chi nhánh Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc của H đến số tài khoản 105006979857 của anh Tống Thế A1, sinh năm 1992 (là chồng chị H) tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam, Chi nhánh Vĩnh Phúc để trả tiền mua 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 Plus, tuy nhiên thực tế H không có tiền để thực hiện giao dịch này. H đăng nhập vào phần lịch sử giao dịch trên ứng dụng Viettel Pay, phía bên ngoài giao dịch sẽ hiển thị dòng chữ “Thất bại”, do hệ thống nâng cấp phiên bản nên khi đăng nhập hệ thống hiển thị dòng chữ “Thất bại” ở phía trên giao dịch. Do vậy, H dùng tay che dòng chữ giao dịch thất bại và đưa cho Chị T xem. Chị T gọi điện hỏi chị Hiền thì chị Hiền bảo chưa thấy báo có chuyển tiền thì H nói do khác hệ thống ngân hàng nên chắc ngày mai sẽ nhận được tiền. Số tiền còn lại 300.000đ thì H bảo Chị T đi cùng về phòng trọ của H lấy tiền thanh toán nốt. Chị T đồng ý và chở H về một quán nước trên đường Chu Văn An, phường Liên Bảo, thành phố Vĩnh Yên. Lợi dụng lúc Chị T không để ý, H đi theo lối cửa sau của quán bỏ trốn để chiếm đoạt điện thoại di động. Sau đó, H mang điện thoại vừa chiếm đoạt được của chị Hiền đến bán cho chị Phạm Thị Thanh T, sinh năm 1990 là chủ cửa hàng mua bán điện thoại di động Nguyễn Kim, ở số 114 đường Tôn Đức Thắng, phường Khai Quang, thành phố Vĩnh Yên với giá 5.000.000đ. Số tiền này H đã tiêu xài cá nhân hết.

Ngày 12/3/2021, chị Tống Thị Thu H có đơn trình báo tới Công an thành phố Vĩnh Yên về việc bị Chu Mạnh H lừa đảo chiếm đoạt 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8plus màu đen đã qua sử dụng. Trị giá thiệt hại về tài sản là 6.600.000đ.

Ngày 12/3/2021, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Vĩnh Yên đã triệu tập Chu Mạnh H lên làm việc, tại đây H đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân như đã nêu trên, đồng thời cơ quan điều tra tiến hành tạm giữ 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Intel màu xanh đã cũ của H để phục vụ công tác điều tra.

Ngày 30/3/2021 Cơ quan CSĐT Công an thành phố Vĩnh Yên có văn bản số 63 yêu cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND thành phố Vĩnh Yên định giá đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8plus màu đen đã qua sử dụng (định giá qua hồ sơ).

Tại kết luận định giá số 68 ngày 29/4/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND thành phố Vĩnh Yên kết luận: “01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8plus màu đen đã cũ, đã qua sử dụng, định giá qua hồ sơ có trị giá 7.000.000đ. Trị giá thiệt hại về tài sản là 7.000.000đ ”.

Cơ quan điều tra Công an thành phố Vĩnh Yên tiến hành xác minh, sao kê lịch sử giao dịch tài khoản số 105006979857 của anh Tống Thế A1 tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam, Chi nhánh Vĩnh Phúc: Xác định ngày 12/3/2021 không có giao dịch nào chuyển khoản số tiền 6.300.000 đồng vào tài khoản của anh Thế A.

Trong giai đoạn điều tra, H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung đã nêu.

Tại Cáo trạng số 170/CT-VKSTPVY ngày 06/11/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Yên truy tố Chu Mạnh H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng đã truy tố. Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt, lời khai trong giai đoạn điều tra được công bố tại phiên tòa, thể hiện đều đã đủ các nội dung đảm bảo cho quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

Kiểm sát viên giữ quyền công tố, công bố luận tội và giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng đối với Chu Mạnh H ; đề nghị áp dụng điểm d khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015, điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự xử Chu Mạnh H từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù. Về trách nhiệm dân sự, đề nghị buộc Chu Mạnh H bồi thường thiệt hại cho chị Lê Thị Thùy L số tiền 10.000.000đ; cho chị Phạm Thị Q số tiền 3.000.000đ, cho Anh Nguyễn Đức A số tiền 7.000.000đ cho anh Trần Minh N số tiền 6.500.000đ, cho chị Tống Thị Thu H số tiền 7.000.000đ .Về xử lý vật chứng áp dụng khoản 1 Điều 47, khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Hình sự, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 tịch thu bán phát mại, sung quỹ Nhà nước 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Intel màu xanh đã cũ mà H sử dụng để liên lạc với chị Tống Thị Thu H , tịch thu sung Ngân sách Nhà nước số tiền 100.000đ của chị Phạm Thị Thanh T; về án phí, buộc bị cáo bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo không tranh luận gì, trong lời nói sau cùng bị cáo xin được xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Vĩnh Yên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Yên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra bị cáo, không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Vì vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh và hình phạt: Xét lời khai nhận tội của các bị cáo tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa là phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác, với kết luận định giá tài sản, cùng các vật chứng và tài liệu trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ căn cứ kết luận: Trong khoảng thời gian từ tháng 12/2020 đến tháng 3/2021, Chu Mạnh H đã dùng thủ đoạn gian dối thực hiện 05 vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản được 08 chiếc điện thoại di động các loại trên địa bàn thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc với tổng giá trị thiệt hại về tài sản theo kết luận định giá tài sản là 33.500.000đ. Cụ thể:

Vụ thứ nhất: Ngày 19/12/2020, tại cổng Bệnh viện Hữu nghị Lạc Việt thuộc xã Định Trung, thành phố Vĩnh Yên, Chu Mạnh H đã dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt 02 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy Note 9 của chị Lê Thị Thùy L. Tổng trị giá thiệt hại về tài sản theo kết luận định giá là:

10.000.000đ.

Vụ thứ hai: Ngày 23/12/2020, tại cửa hàng mua bán điện thoại Q ở tổ dân phố Làng Bầu, phường Liên Bảo, thành phố Vĩnh Yên, Chu Mạnh H đã dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6s plus của chị Phạm Thị Q. Trị giá thiệt hại điện thoại theo kết luận định giá là: 3.000.000đ.

Vụ thứ ba: Ngày 06/3/2021, tại khu vực ngã 5 gốc Vừng gần siêu thị điện máy HC, phường Liên Bảo, thành phố Vĩnh Yên, Chu Mạnh H đã dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt 02 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 plus của Anh Nguyễn Đức A . Tổng trị giá thiệt hại 02 chiếc điện thoại theo kết luận định giá là: 7.000.000đ.

Vụ thứ tư: Ngày 10/3/2021, tại cửa hàng mua bán điện thoại Minh Nghĩa ở số nhà XX, đường Nguyễn Văn Linh, phường Liên Bảo, thành phố Vĩnh Yên, Chu Mạnh H đã dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt 02 chiếc điện thoại di động gồm 01 chiếc nhãn hiệu Iphone 7 plus và 01 chiếc Iphone 6s của anh Trần Minh N . Tổng trị giá thiệt hại 02 chiếc điện thoại theo kết luận định giá là: 6.500.000đ.

Vụ thứ năm: Ngày 12/3/2021, tại cổng Bệnh viện Hữu nghị Lạc Việt thuộc xã Định Trung, thành phố Vĩnh Yên, Chu Mạnh H đã dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 plus của chị Tống Thị Thu H . Trị giá thiệt hại điện thoại theo kết luận định giá là: 7.000.000đ.

Chu Mạnh H thực hiện hành vi phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm, nên lần phạm tội này đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 174 của Bộ luật Hình sự 2015. Điều luật quy định:

"1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000đ đến dưới 50.000.000đ… thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm;

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm: … d, Tái phạm nguy hiểm; ".

Vì vậy, Quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Yên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Vụ án có tính chất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác mà còn làm mất an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo là đối tượng có nhân thân xấu từng bị đưa ra xét xử và kết án tù; đã tái phạm chưa được xóa án tích mà còn thực hiện tội phạm mới do cố ý, cho thấy bị cáo vẫn có thái độ coi thường pháp luật. Bị cáo phạm tội nhiều lần nên phải chịu một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự; về tình tiết giảm nhẹ, trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình vì vậy được hưởng một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Căn cứ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy rằng cần phải xét xử nghiêm khắc đối với bị cáo bằng hình phạt tù tại trại giam trong mức đề nghị của đại diện Viện kiểm sát để có tác dụng răn đe và giáo dục bị cáo, cũng như phòng ngừa chung trong xã hội.

Về hình phạt bổ sung: Giai đoạn điều tra và tại phiên tòa làm rõ bị cáo không có nghề nghiệp, không sở hữu tài sản gì giá trị đảm bảo thi hành án nên không phạt bổ sung đối với bị cáo.

[3] Về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng của vụ án:

Đối với 02 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy Note 9 là tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của chị Lê Thị Thùy L, ngày 19/12/2020 bị H chiếm đoạt mất rồi bán cho anh Phan Văn H. Quá trình điều tra chưa thu giữ được vật chứng nên chị L yêu cầu H phải bồi thường cho chị số tiền 10.000.000đ tương ứng với trị giá 02 chiếc điện thoại di động theo kết luận định giá, H nhất trí bồi thường nhưng chưa có khả năng kinh tế để trả ngay, do đó yêu cầu của chị L là có căn cứ cần chấp nhận.

Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S Plus, tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của chị Phạm Thị Q, ngày 23/12/2020 bị H chiếm đoạt rồi bán cho anh Phan Văn H. Quá trình điều tra vẫn chưa thu giữ được vật chứng nên chị Q yêu cầu H phải bồi thường cho chị số tiền 3.000.000đ tương ứng với trị giá H nhất trí bồi thường nhưng hiện tại H không có khả năng trả ngay, do đó yêu cầu của chị Q là có căn cứ cần chấp nhận.

Đối với 02 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7Plus màu đen, quá trình điều tra xác định là tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của Anh Nguyễn Đức A , ngày 06/3/2021 bị H chiếm đoạt mất rồi bán cho một người nam giới lái xe taxi (không biết họ, tên, tuổi, địa chỉ) với giá 5.000.000đ. Ngày 18/3/2021, cơ quan CSĐT Công an thành phố Vĩnh Yên đã ra Thông báo truy tìm vật chứng 02 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7plus màu đen. Tuy nhiên đến nay vẫn chưa thu giữ được vật chứng, quá trình điều tra anh Đức A yêu cầu H phải bồi thường cho anh tổng số tiền 7.000.000đ tương ứng với trị giá 02 chiếc điện thoại di động theo kết luận định giá, H nhất trí bồi thường nhưng chưa có khả năng trả ngay cho anh Đức A. Do đó yêu cầu của Anh Nguyễn Đức A là có căn cứ cần chấp nhận.

Ngày 10/3/2021, anh N bị H chiếm đoạt 02 chiếc điện thoại di động gồm 01 chiếc nhãn hiệu Iphone 7plus màu đen và 01 chiếc Iphone 6s màu vàng. Tuy nhiên đến nay vẫn chưa thu giữ được vật chứng, nên anh N yêu cầu H phải bồi thường cho anh tổng số tiền 6.500.000đ tương ứng với trị giá 02 chiếc điện thoại di động theo kết luận định giá, H nhất trí bồi thường nhưng hiện tại H không có khả năng kinh tế để trả ngay do đó yêu cầu của anh N là có căn cứ cần chấp nhận.

Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5S mà H sử dụng để liên lạc với chị Lê Thị Thùy L và Anh Nguyễn Đức A , quá trình điều tra H khai: Chiếc điện thoại trên là tài sản của H mua từ nguồn tiền do lao động tích cóp mà có, vào các ngày 19/12/2020, 06/3/2021 H sử dụng điện thoại để liên lạc với chị Linh, anh Đức A hỏi mua điện thoại di động, mục đích để lừa đảo chiếm đoạt tài sản, là công cụ sử dụng vào việc phạm tội. Tuy nhiên, sau đó chiếc điện thoại Iphone 5S bị hỏng nên H đã vứt bỏ trên đường đi chơi (không nhớ địa điểm) nên Cơ quan điều tra Công an thành phố Vĩnh Yên không thu giữ được do đó không có căn cứ để xử lý.

Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Intel màu xanh đã cũ mà H sử dụng để liên lạc với chị Tống Thị Thu H, quá trình điều tra H khai: Chiếc điện thoại trên là tài sản của H mua từ nguồn tiền do lao động tích cóp mà có, vào ngày 12/3/2021 H sử dụng điện thoại để liên lạc với Hiền hỏi mua điện thoại di động, mục đích để lừa đảo chiếm đoạt tài sản là công cụ sử dụng vào việc phạm tội, cần tịch thu để bán phát mại sung quỹ Nhà nước.

Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8plus màu đen, quá trình điều tra xác định là tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của chị Tống Thị Thu H , ngày 12/3/2021 bị H chiếm đoạt rồi bán cho chị Phạm Thị Thanh T. Sau khi mua chiếc điện thoại di động trên của H, Chị T đã bán lại cho 01 người khách (không biết họ, tên, tuổi, địa chỉ) với giá 5.100.000đ. Ngày 18/3/2021, cơ quan CSĐT Công an thành phố Vĩnh Yên đã ra Thông báo truy tìm vật chứng 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8plus màu đen. Tuy nhiên đến nay vẫn chưa thu giữ được vật chứng, quá trình điều tra chị Hiền yêu cầu H phải bồi thường cho chị số tiền 7.000.000đ tương ứng với trị giá chiếc điện thoại di động theo kết luận định giá, H nhất trí bồi thường nhưng chưa có khả năng kinh tế để trả ngay do đó yêu cầu của chị Hiền là có căn cứ cần chấp nhận.

Đối với số tiền 100.000đ là tiền lời Chị T bán điện thoại di động Iphone 8Plus đã mua của H, ngày 28/8/2021, Chị T đã tự nguyện giao nộp cho Cơ quan điều tra Công an thành phố Vĩnh Yên để phục vụ công tác điều tra. Tuy số tiền 100.000đ nêu trên không phải là tiền do phạm tội mà có nhưng theo đề nghị trong đơn, Chị T xác định do bán điện thoại mua của H mà có nên đề nghị sung quỹ Nhà nước.

[5] Đối với các cá nhân có liên quan tới vụ án:

Anh Phan Văn H là người đã mua 02 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy Note 9 của H do chiếm đoạt được của chị L và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S Plus màu vàng của H do chiếm đoạt được của chị Q mà có. Quá trình điều tra xác định, khi trao đổi mua điện thoại trên, anh Hội được H cho biết nguồn gốc chiếc điện thoại đó là tài sản hợp pháp của H và anh Hội cũng không biết gì về hành vi phạm tội của H. Do vậy, cơ quan CSĐT Công an thành phố Vĩnh Yên không đề cập xử lý đối với Hội là có căn cứ;

Đối với người nam giới lái xe taxi đã mua 02 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7Plus của H do chiếm đoạt được của anh Đức A mà có. Quá trình điều tra H khai không biết họ tên, tuổi, địa chỉ, không nhớ đặc điểm nhận dạng và đặc điểm xe ô tô taxi của người nam giới đó. H nói với người nam giới lái xe taxi về nguồn gốc 02 chiếc điện thoại là tài sản hợp pháp của H , cơ quan CSĐT Công an thành phố Vĩnh Yên đã tiến hành xác minh tại địa bàn phường Liên Bảo và một số phường, xã trên địa bàn thành phố Vĩnh Yên nhưng chưa xác định được nhân thân lai lịch của người nam giới lái xe taxi như khai báo của H . Do vậy, cơ quan CSĐT Công an thành phố Vĩnh Yên tiếp tục điều tra, xác minh, khi nào làm rõ xử lý sau.

Đối với người nam giới đã mua 02 chiếc điện thoại di động gồm 01 chiếc nhãn hiệu Iphone 7Plus và 01 chiếc Iphone 6s của H do chiếm đoạt được của anh N mà có. Quá trình điều tra H khai không biết họ tên, tuổi, địa chỉ, không nhớ đặc điểm nhận dạng của người nam giới đó. Hơn nữa, khi trao đổi mua bán 02 chiếc điện thoại trên, H nói với người nam giới về nguồn gốc 02 chiếc điện thoại là tài sản hợp pháp của H , cơ quan CSĐT Công an thành phố Vĩnh Yên đã tiến hành xác minh tại địa bàn phường Liên Bảo và một số phường, xã trên địa bàn thành phố Vĩnh Yên nhưng chưa xác định được nhân thân lai lịch của người nam giới như khai báo của H . Do vậy, cơ quan CSĐT Công an thành phố Vĩnh Yên tiếp tục điều tra, xác minh, khi nào làm rõ xử lý sau.

Đối với chị Phạm Thị Thanh T là người đã mua chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 8 plus của H do chiếm đoạt được của chị Hiền mà có. Quá trình điều tra xác định, khi trao đổi mua bán chiếc điện thoại trên Chị T được H cho biết nguồn gốc chiếc điện thoại đó là tài sản hợp pháp của H và Chị T cũng không biết gì về hành vi phạm tội của H . Do vậy, cơ quan CSĐT Công an thành phố Vĩnh Yên không đề cập xử lý đối với Tâm là có căn cứ;

[6] Về án phí: Cần buộc bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. Đối với án phí dân sự trong vụ án hình sự, do bị cáo và bị hại đều thống nhất được mức bồi thường trước khi mở phiên tòa nhưng chưa cụ thể và không đề nghị Tòa ghi nhận nên bị cáo phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật đối với tổng số tiền phải bồi thường cho các bị hại là 33.500.000đ.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố Chu Mạnh H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

1. Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt Chu Mạnh H 03 (ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 26/8/2021.

2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 357, khoản 2 Điều 468, Điều 586, Điều 589 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Buộc Chu Mạnh H phải bồi thường thiệt hại cho chị Lê Thị Thùy L số tiền 10.000.000đ (mười triệu đồng); cho chị Phạm Thị Q số tiền 3.000.000đ (ba triệu đồng); cho Anh Nguyễn Đức A số tiền 7.000.000đ (bảy triệu đồng); cho anh Trần Minh N số tiền 6.500.000đ (sáu triệu năm trăm nghìn đồng); cho chị Tống Thị Thu H số tiền 7.000.000đ (bảy triệu đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật mà Chu Mạnh H không thi hành số tiền trên thì còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền chưa thi hành theo lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47, khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự;

4. khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015. Tịch thu bán phát mại, sung quỹ Nhà nước 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Intel màu xanh cũ, đã thu của H ; tịch thu sung quỹ Nhà nước của chị Phạm Thị Thanh T số tiền 100.000đ. (Vật chứng có đặc điểm như Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản lập tại chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vĩnh Yên ngày 23/11/2021).

Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, buộc Chu Mạnh H phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 1.675.000đ án phí dân sự trong vụ án hình sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án, thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo, thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc ngày Bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

166
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 162/2021/HS-ST

Số hiệu:162/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về