TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG ĐIỀN, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
BẢN ÁN 159/2023/HS-ST NGÀY 21/09/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 21 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 156/2023/TLHS-ST ngày 24 tháng 8 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 157/2023/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 8 năm 2023, đối với bị cáo:
Phan Văn N, sinh năm: 1968 tại tỉnh Cà Mau; nơi cư trú: Số nhà G, ấp P, xã P, huyện L, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Văn T (chết) và bà Mai Thị Ú, sinh năm: 1938; hiện đang chung sống như vợ chồng với Nguyễn Thị P, sinh năm: 1978 và có 06 người con, lớn nhất sinh năm không rõ và nhỏ nhất sinh năm: 2012; tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân:
- Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 12/QĐ-XPVPHC ngày 07-01-2022 của Công an huyện L, phạt tiền 1.500.000đ về hành vi đánh bạc dưới hình thức cá cược đá gà ăn tiền.
- Bản án số 94/2023/HS-ST ngày 07-6-2023 của Tòa án nhân dân huyện Long Điền, xử phạt 03 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Hiện đang chấp hành án tại Trại tạm giam Công an tỉnh B (có mặt).
- Bị hại: Ông Nguyễn Văn Q, sinh năm: 1973 và bà Bùi Thị L1, sinh năm: 1976 (ông Q vắng mặt, bà L1 có mặt).
Hộ khẩu thường trú: Tổ 22/66, khu phố H, thị trấn L, huyện L, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Chỗ ở hiện nay: Số A đường P, khu phố H, thị trấn L, huyện L, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
- Người làm chứng:
1. Anh Bùi Văn M, sinh năm: 1987 (vắng mặt).
Địa chỉ: Khu phố H, thị trấn L, huyện L, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
2. Bà Nguyễn Thị P, sinh năm: 1978 (vắng mặt).
Địa chỉ: Ấp Đ, xã L, thành phố B, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
3. Ông Bùi Quốc T1, sinh năm: 1979 (vắng mặt).
Địa chỉ: Ấp P, xã P, huyện L, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng đầu tháng 04-2021, ông Nguyễn Văn Q kể cho ông Bùi Quốc T1 nghe việc anh Nguyễn Văn S (con của ông Q) bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện L ra quyết định khởi tố bị can và bắt tạm giam về hành vi cố ý gây thương tích trong vụ án xảy ra ngày 16-01-2021 tại ấp P, xã P, huyện L và hỏi ông T1 có quen biết ai không để nhờ người xin thăm gặp và giảm án cho anh S. Do trước đây ông T1 gặp và được nghe Phan Văn N nói đã xin làm được giấy tờ về đất đai cho người khác nên liên lạc kể lại sự việc và nhờ Phan Văn N xin với người có thẩm quyền cho ông Q được thăm gặp anh S. Khoảng 02 ngày sau, ông T1 dẫn Phan Văn N đến nhà để nói chuyện với ông Q và bà Bùi Thị L1 (vợ ông Q). Do Phan Văn N đang cần tiền tiêu xài nên khi nghe nói vậy đã nảy sinh ý định đưa ra thông tin gian dối nói với ông Q và bà L1 là mình có quen biết với người có thẩm quyền của Công an huyện L, sẽ xin cho ông Q, bà L1 được thăm gặp anh S và yêu cầu đưa trước 10.000.000đ để làm kinh phí. Sau khi chiếm đoạt số tiền trên, Phan Văn N tiếp tục liên lạc với ông S, bà L1 đưa ra thông tin gian dối “mình quen biết với người có thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện Long Điền sẽ xin cho anh S được giảm án” rồi yêu cầu đưa tiếp 150.000.000đ. Khoảng 03 ngày sau, Phan Văn N đến nhà gặp ông Q, bà L1 lấy 130.000.000đ với sự chứng kiến của anh Bùi Văn M (em ruột của bà L1). Còn lại 20.000.000đ, do ông S, bà L1 chưa chuẩn bị kịp nên sáng hôm sau Phan Văn N quay lại lấy số tiền này.
Ngày 22-11-2021, Tòa án nhân dân huyện Long Điền xét xử tuyên phạt Nguyễn Văn S 02 năm 08 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” (trong vụ án cố ý gây tích xảy ra ngày 07-3-2021 tại ấp L, xã P, huyện L) nên bà L1 liên lạc với Phan Văn N hỏi vì sao anh S không được giảm án. Do trước đây nghe ông Q, bà L1 kể việc anh S bị khởi tố bị can trong 02 vụ án khác nhau nên Phan Văn N tiếp tục đưa ra thông tin “S đã bị khởi tố trong 02 vụ án nên cần xin giảm án tiếp” rồi yêu cầu đưa tiếp 150.000.000đ. Khoảng 02 ngày sau, Phan Văn N đến gặp ông Q lấy 20.000.000đ và hẹn số tiền còn lại sẽ lấy sau.
Ngày 26-11-2021, Tòa án nhân dân huyện Long Điền xét xử tuyên phạt Nguyễn Văn S 05 năm 06 tháng tù về tội cố ý gây thương tích (trong vụ án cố ý gây thương tích xảy ra ngày 16-01-2023 tại ấp P, xã P, huyện L). Thấy vậy, ông Q, bà L1 liên lạc để hỏi sự việc, nhưng Phan Văn N cố tình trốn tránh. Đến đầu tháng 4- 2023, biết Phan Văn N đang bị tạm giam về hành vi “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” tại Công an huyện L nên bà L1 làm đơn tố giác về hành vi “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” gửi đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện L.
Qua làm việc, Phan Văn N khai nhận số tiền chiếm đoạt của ông Q, bà L1 180.000.000đ đã mang trả cho người đàn ông tên H (không rõ lai lịch) 120.000.000đ và người tên đàn ông tên C (không rõ lai lịch) 45.000.000đ. Còn lại 15.000.000đ đã tiêu xài cá nhân hết.
Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện L, Phan Văn N khai nhận toàn bộ hành vi của mình như đã nêu trên.
Về trách nhiệm dân sự: Vợ chồng ông Q, bà L1 yêu cầu Phan Văn N phải bồi thường 180.00.000đ đã chiếm đoạt.
Đối với ông Bùi Quốc T1 qua làm việc xác định không liên quan đến hành vi phạm tội của Phan Văn N nên không có cơ sở xử lý.
Tại Cáo trạng số 153/CT-VKSLĐ ngày 22-8-2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Điền truy tố Phan Văn N về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 174 của Bộ luật Hình sự.
Trong phần luận tội, đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phan Văn N phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; áp dụng điểm c khoản 2 Điều 174, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 03 năm 06 tháng đến 4 năm tù và áp dụng Điều 55 của Bộ luật Hình sự, tổng hợp với hình phạt 03 năm tù tại Bản án số 94/2023/HS-ST ngày 07-6-2023 của Tòa án nhân dân huyện Long Điền, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 06 năm 06 tháng đến 07 năm tù.
Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng các điều 584, 585, 586 và 589 của Bộ luật Dân sự, buộc bị cáo bồi thường cho ông Nguyễn Văn Q, bà Bùi Thị L1 180.00.000đ.
Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố, không có ý kiến tranh luận, đồng ý bồi thường cho bị hại và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt.
Bị hại bà Bùi Thị L1 yêu cầu bị cáo phải bồi thường 180.000.000đ, về trách nhiệm hình sự đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan cảnh sát điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên và Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
[2] Về hành vi phạm tội và tội danh: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Từ đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Để có tiền sử dụng vào mục đích cá nhân nên vào khoảng tháng 4-2021, Phan Văn N đưa ra các thông tin gian dối là quen biết với người có thẩm quyền để giúp cho vợ chồng ông Nguyễn Văn Q, bà Bùi Thị L1 thăm gặp và xin cho anh Nguyễn Văn S (con của ông Q, bà L1) được hưởng án treo. Vợ chồng ông Q, bà L1 tin tưởng đưa cho Phan Văn N nhiều lần với tổng số tiền 180.000.000đ. Vì vậy, hành vi của bị cáo đã đủ dấu hiệu cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 174 của Bộ luật Hình sự đúng như cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố.
[3] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội: Hành vi nêu trên của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, an toàn xã hội tại địa phương, gây tâm lý hoang mang lo sợ cho người dân nơi xảy ra tội phạm. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật, nhưng lười lao động muốn chiếm đoạt thành quả lao động của người khác nhằm thỏa mãn nhu cầu tiêu xài cá nhân mà cố ý thực hiện tội phạm.
[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo nhiều lần thực hiện hành vi phạm tội, mỗi lần đều đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; đồng ý bồi thường thiệt hại cho bị hại là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[6] Từ những nhận định và phân tích nêu trên, cần phải áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ sức răn đe, giáo dục riêng và phòng ngừa tội phạm nói chung.
[7] Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo bồi thường cho vợ chồng ông Q, bà L1 180.000.000đ.
[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm và 9.000.000đ án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn luật định.
Vì những lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Phan Văn N, phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”;
1. Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 174, điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38 và Điều 55 của Bộ luật Hình sự
Xử phạt: Phan Văn N 04 (bốn) năm tù, tổng hợp với hình phạt 03 năm tù tại Bản án số 94/2023/HS-ST ngày 07-6-2023 của Tòa án nhân dân huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 07 (bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 13-02-2023.
2. Trách nhiệm dân sự: Căn cứ vào các điều 357, 584, 585, 589 và 468 của Bộ luật Dân sự;
Buộc bị cáo Phan Văn N bồi thường cho ông Nguyễn Văn Q, bà Bùi Thị L1 180.000.000 (một trăm tám mươi triệu) đồng.
Kể từ ngày, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bên phải thi hành án không thực hiện nghĩa vụ trả tiền nêu trên thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải trả cho bên được thi hành án một khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự tương ứng với thời gian chưa thi hành án.
3. Án phí sơ thẩm: Buộc bị cáo Phan Văn N phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 9.000.000 (chín triệu) đồng án phí dân sự sơ thẩm. Tổng cộng buộc bị cáo phải nộp 9.200.000 (chín triệu, hai trăm nghìn) đồng án phí sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo: Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án, bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm. Đối với đương sự vắng mặt, thời hạn kháng cáo được tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.
5. “Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”./.
Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 159/2023/HS-ST
Số hiệu: | 159/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Long Điền - Bà Rịa - Vũng Tàu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về