Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 154/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 154/2022/HS-ST NGÀY 28/09/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 134/2022/TLST- HS ngày 30/8/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 141/2022/QĐXXST- HS ngày 12/9/2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Huỳnh Hữu V, sinh năm: 1978, tại Cà Mau; nơi cư trú: Số 369 Quang T, khóm 4, phường 5, thành phố C, tỉnh Cà M; nghề nghiệp: Nuôi tôm;

trình độ văn hóa: 12/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Huỳnh Ngọc T và bà Bùi Thị B; vợ: Đỗ Thúy H và 02 con; tiền án, tiền sự: Không; Bắt tạm giam ngày 07/4/2022, bị cáo bị tạm giam có mặt.

- Bị hại: Dương Hoàng N, sinh năm 1980 Nơi cư trú: Ấp 1, xã Tắc V, thành phố C, tỉnh Cà M - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Ông Dương Hoàng B, sinh năm 1953 Bà Lê Thị M, sinh năm 1958 Nơi cư trú: Ấp 1, xã Tắc V, thành phố C, tỉnh Cà M

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đầu tháng 02 năm 2021, do cần tiền kinh doanh nên anh Dương Hoàng N mang hai giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đến Phòng giao dịch ngân hàng HDBank - chi nhánh Tắc V để vay 700.000.000 đồng. Do hai giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên Dương Văn B và Lê Thị M nên hợp đồng vay phải do ông B và bà M ký tên. Sau đó, cán bộ tín dụng đến phần đất để thẩm định thực tế, sau khi thẩm định cán bộ tín dụng báo cáo cho Huỳnh Hữu V biết chỉ cần một giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đủ vay 1.000.000.000 đồng.

Lúc này, Huỳnh Hữu V nảy sinh ý định chiếm đoạt số tiền 300.000.000 đồng của Nam nên ngày 04/02/2021, Huỳnh Hữu V gọi điện thoại cho anh Dương Hoàng N đến Phòng giao dịch ngân hàng HDBank - chi nhánh Tắc V để gặp V, tại Phòng giao dịch V nói với Dương Hoàng N “Nếu vay 1.000.000.000 đồng sẽ được giải ngân trong tết, được hưởng lãi suất ưu đãi, còn vay 700.000.000 đồng thì qua tết mới giải ngân được mà lãi suất không được hưởng ưu đãi và nếu số tiền 300.000.000 đồng không cần sử dụng thì gửi tiết kiệm lại cho ngân hàng vì lãi suất gửi tiết kiệm bằng lãi suất cho vay”, sau khi Huỳnh Hữu V nói vậy thì Dương Hoàng N đồng ý vay 1.000.000.000 đồng.

Đến ngày 09/02/2021 ông Dương Văn B, bà Lê Thị M đến Phòng giao dịch ký hợp đồng tín dụng hạn mức số 6495/21MN/HĐTD và ký hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất thửa số 0105+0116+0117, tờ bản đồ số 01, xã Tân Thạnh, thị xã Giá Rai, tỉnh Bạc L, diện tích: 44.820m2, đồng thời ký đề nghị giải ngân kiêm khế ước nhận nợ số 6495/21MN/HĐTD/KUNN01, số tiền vay 1.000.000.000 đồng, trong quá trình ký các hợp đồng thì ông B và bà M không xem số tiền vay trong hợp đồng nhưng đến giải ngân thì được giải ngân 1.000.000.000 đồng thì ông B và bà M không đồng ý nhận tiền và cự cải tại Phòng giao dịch vì vợ chồng ông chỉ có nhu cầu vay 700.000.000 đồng.

Do V muốn chiếm đoạt 300.000.000 đồng nên lúc này V mời ông B, bà M, anh N vào phòng riêng của V “V nói với ông B, bà M và anh N nếu sửa lại hợp đồng cũng khó khăn và qua tết mới giải ngân được, còn vay 1.000.000.000 đồng được nhận trong tết (ngày 28/12/2020 là ngày 28 tết âm lịch) nếu chú cần sử dụng 700.000.000 đồng, còn lại 300.000.000 đồng chú không sử dụng thì chú gửi tiết kiệm lại ngân hàng vì lãi suất cho vay bằng lãi suất gửi tiết kiệm và hợp đồng gửi tiết kiệm thì chú không được đứng tên vì chú vừa vay, vừa gửi nên không được mà anh N đứng tên hợp đồng gửi tiết kiệm mới được”. Khi nghe V trình bày thì ông B đồng ý nhận 1.000.000.000 đồng và sau đó sẽ gửi tiết kiệm lại 300.000.000 đồng.

Khi gia đình ông B về nhà thì V soạn hợp đồng tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn số 03/HĐTG-2021 ngày 09/02/2021 (số hợp đồng 03 là số khống V tự cho và không có đóng dấu của ngân hàng) đại diện ngân hàng là Huỳnh Hữu V: Giám đốc phòng giao dịch ngân hàng HD Bank - chi nhánh Tắc Vân, còn đại diện bên gửi là Dương Hoàng N, có ký tên và đóng dấu tên Huỳnh Hữu V, hợp đồng gửi có kỳ hạn khoản gửi 100.000.000 đồng là 01 tháng đến ngày 09/3/2021, còn 200.000.000 đồng là 03 tháng đến ngày 09/5/2021.

Sau khi soạn xong hợp đồng, Huỳnh Hữu V mang hợp đồng tiền gửi 03/HĐTG-2021 đến nhà ông B cho Dương Hoàng N ký tên và nhận 300.000.000 đồng từ ông B. Đến ngày 09/3/2021 ông B đến gặp V lấy 100.000.000 đồng và tiền lãi thì V hứa 01 tuần trả và tiếp tục hẹn đến ngày 09/5/2021. Đến ngày 10/6/2021 V đến nhà ông B mượn lại họp đồng tiền gửi 03/HĐTG-2021 và nói dối với ông B để đến ngân hàng rút tiền trả cho ông B nhưng thực tế mục đích của V mượn họp đồng để cho bạn của V tin tưởng cho V mượn tiền. Sau đó, V bỏ hợp đồng trong cóp xe rồi bị mất, V mới in lại họp đồng khác có nội dung giống như nội dung hợp đồng số 03/HĐTG-2021, V ký tên đống dấu Huỳnh Hữu V gửi lại cho anh N. Qua nhiều lần hứa trả nhưng không có khả năng nên ông B làm đơn tố cáo Huỳnh Hữu V đến Cơ quan Công an.

Tại bản kết luận giám định số: 81 /KL-KTHS ngày 26/3/2022 của Phòng kỹ thuật Công an tỉnh Cà M kết luận:

Chữ ký, chữ viết họ tên “ Huỳnh Hữu V” dưới mục “ ĐẠI DIỆN BÊN A” trên “ HỢP ĐỒNG TIỀN GỬI CÓ KỲ HẠN” số: 03/HĐTG-2021, ngày 09/2/2021 (Ký hiệu A) so với chữ ký, chữ viết họ tên “ Huỳnh Hữu V” dưới mục “ NGƯỜI KHAI” trên “ BIÊN BẢN GHI LỜI KHAI” ngày 26/01/2022 (Ký hiệu M) là do cùng một người ký ra.

Qua quá trình điều tra Huỳnh Hữu V thành khẩn khai báo, thừa nhận hành vi phạm tội. Trong quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã thu giữ:

+ Một hợp đồng tiền gửi số 03/HĐTG-2021 ngày 09/02/2021 giữa Dương Hoàng N và Ngân hàng HDBank - chi nhánh Tắc V, đại diện là Huỳnh Hữu V. Tuy nhiên, hợp đồng này không có trong sổ lưu và sổ vào số của Ngân hàng HDBank - chi nhánh Tắc V, hiện nay hợp đồng này được đánh bút lục kèm theo hồ sơ vụ án.

Ngoài ra trong quá trình khám xét nhà của Huỳnh Hữu V, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Cà Mau đã thu giữ các tài liệu không có liên quan đến vụ án gồm:

+ 03 (Ba) biên nhận được đánh số thứ tự từ 01 đến 03 có chữ ký của Huỳnh Hữu V, thể hiện các nội dung Huỳnh Hữu V mượn tiền của anh Long là 250.000.000 đồng, Huỳnh Hữu V trả tiền cho anh Phùng Công Sơn là 250.000.000 đồng và anh Phạm Hoàng Diễn có nhận tiền Huỳnh Hữu V là 350.000.000 đồng;

+ 01 (Một) giấy mượn tiền ghi ngày 04/6/2020 có chữ ký của Huỳnh Hữu V thể hiện nội dung Huỳnh Hữu V có mượn tiền của chị Liễu và anh Cường với số tiền 500.000.000 đồng;

+ 01 (Một) giấy nhận nợ số 01-19.010/GNN bên nhận nợ Trương Phi Long thể hiện nội dung anh Trương Phi Long đang vay ngân hàng TMCP Sài Gòn Công Thương số tiền 1.200.000.000 đồng;

+ 01 (Một) giấy nhận nợ số 01-19.009/GNN bên nhận nợ Huỳnh Hữu T thể hiện nội dung anh Huỳnh Hữu T đang vay ngân hàng TMCP Sài Gòn Công Thương số tiền 1.200.000.000 đồng;

+ 01 (Một) hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất số 0430/16/HĐBĐ-123 bên B Huỳnh Hữu T và Huỳnh Ngọc T1 thể hiện nội dung anh T, chị T1 đang vay ngân hàng TMCP Sài Gòn phát triển thành phố Hồ Chí Minh, chi nhánh Cà Mau số tiền 500.000.000 đồng;

+ 01 (Một) hợp đồng tín dụng hạn mức số 0917/16/16/HĐTDHM-CN/123 bên được cấp tín dụng Huỳnh Hữu T và bà Huỳnh Ngọc T1 thể hiện nội dung anh T, chị T1 đang vay ngân hàng TMCP Sài Gòn phát triển thành phố Hồ Chí Minh, chi nhánh Cà Mau số tiền 500.000.000 đồng;

+ 01 (Một) đề nghị giải ngân kiêm kế ước nhận nợ số 0917/16/HĐTDHM- CN/13/ĐGGN/KHNN-01 bên nhận nợ Huỳnh Hữu T và bà Huỳnh Ngọc T1 thể hiện nội dung anh T, chị T1 đang vay ngân hàng TMCP Sài Gòn phát triển thành phố Hồ Chí Minh, chi nhánh Cà Mau số tiền 500.000.000 đồng;

Tất cả được đánh bút lục kèm theo hồ sơ vụ án.

Về trách nhiệm dân sự: Anh N đã nhận đủ 300.000.000 đồng và không yêu cầu gì thêm, đồng thời có đơn xin bãi nại cho V.

Tại cáo trạng số: 134/CT-VKS ngày 29/8/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau truy tố bị cáo Huỳnh Hữu V về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 3 Điều 174 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử giữ nguyên quyết định truy tố đối với Huỳnh Hữu V và đề nghị: Tuyên bố Huỳnh Hữu V phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 174; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; điểm c khoản 1 Điều 52; Điều 54 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo từ 05 năm đến 06 năm tù. Trách nhiệm dân sự do bị hại đã nhận lại đủ 300.000.000 đồng do bị cáo bồi thường nên không buộc bị cáo bồi thường tiếp.

Bị cáo Huỳnh Hữu V thừa nhận hành vi phạm tội, yêu cầu Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Quá trình điều tra anh N xác định đã nhận lại đủ 300.000.000 đồng do bị cáo bồi thường nên không yêu cầu bị cáo bồi thường tiếp, đồng thời có yêu cầu giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, bị cáo, bị hại, người liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Xét thấy, hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Huỳnh Hữu V khai nhận: Ngày 09/02/2021, tại Phòng giao dịch ngân hàng HDBank - chi nhánh Tắc V, do cần tiền để sử dụng cho mục đích cá nhân, với vai trò là giám đốc Phòng giao dịch ngân hàng HDBank - chi nhánh Tắc V, bị cáo lập hợp đồng giả tiền gửi tiết kiệm chiếm đoạt của anh Dương Hoàng N số tiền 300.000.000 đồng.

[3] Xét lời khai nhận tội của bị cáo Huỳnh Hữu V tại phiên tòa là có căn cứ chấp nhận, bởi lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai anh N, phù hợp với kết luận giám định và nhiều tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án.

[4] Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo là giám đốc Phòng giao dịch ngân hàng HDBank - chi nhánh Tắc V, bị cáo nhận thức được hành vi lập hợp đồng giả tiền gửi tiết kiệm, mục đích cho anh N tin tưởng đây là hợp đồng tiền gửi thật để chiếm đoạt của anh N số tiền 300.000.000 đồng là xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của anh N được pháp luật bảo vệ, là vi phạm pháp luật, phải bị pháp luật xử lý. Thế nhưng chỉ vì muốn có tiền để sử dụng cho mục đích cá nhân nên bị cáo bất chấp pháp luật, lợi dụng chức vụ quyền hạn của mình, cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Với hành vi của bị cáo như đã nêu trên, đã cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, vì vậy Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau truy tố bị cáo theo điểm a khoản 3 Điều 174 của Bộ luật hình sự là có căn cứ.

[5] Xét tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, bởi lẽ hành vi của bị cáo không chỉ xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của anh N, mà hành vi đó còn gây ảnh hưởng xấu đến uy tín hoạt động ngân hàng, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự xã hội, gây hoang mang bất bình trong dư luận. Với tính chất, mức độ thực hiện tội phạm cũng hậu quả bị cáo gây ra, cần áp dụng hình phạt nghiêm đối với bị cáo để cải tạo giáo dục bị cáo, đồng thời cũng nhằm răn đe phòng ngừa chung cho xã hội.

[6] Tuy nhiên khi lượng hình phạt, Hội đồng xét xử xét thấy trước khi phạm tội bị cáo có nhân thân tốt. Sau khi phạm tội bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải việc làm đã qua; đã bồi thường toàn bộ thiệt hại cho anh N với số tiền 300.000.000 đồng; anh N có yêu cầu bãi nại cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự nên có áp dụng Điều 54 của Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Tại phiên tòa Kiểm sát viên đề nghị xử phạt bị cáo từ 05 đến 06 năm tù xét thấy là nghiêm khắc.

[7] Trách nhiệm dân sự do bị cáo đã bồi thường cho anh N xong 300.000.000 đồng, anh N không yêu cầu gì thêm nên không xem xét.

[8] Đối với các giấy tờ thu giữ khi bắt bị cáo đã được lưu kèm hồ sơ vụ án nên không xem xét.

[9] Án phí hình sự sơ thẩm buộc bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 174; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; điểm c khoản 1 Điều 52; Điều 54 của Bộ luật hình sự.

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố bị cáo Huỳnh Hữu V phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Xử phạt bị cáo Huỳnh Hữu V 03 (ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 07/4/2022.

Án phí hình sự sơ thẩm buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày được giao nhận bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 154/2022/HS-ST

Số hiệu:154/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về