Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 15/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG KHÁNH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 15/2021/HS-ST NGÀY 28/01/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 01 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 02/2021/HSST ngày 08 tháng 01 năm 2021; theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2021/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo:

Lê Thị Chu S, sinh năm 1990, tên gọi khác: Không, tại Bình Phước; Nơi cư trú: Tổ 12, khu phố 2, phường XH, thành phố LK, tỉnh Đồng Nai; chỗ ở: Như trên; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 12/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; con ông: Không rõ và bà Chu Thị Thanh T, Sinh năm 1970; có chồng: Dương Văn T, sinh năm 1990; Bị cáo có 03 người con, lớn nhất sinh năm 2014, nhỏ nhất sinh tháng 03 năm: 2020;

Tiền sự:

Ngày 31/5/2017, bị Công an xã Bàu Trâm, thành phố Long Khánh xử phạt hành chính 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”. Hiện chưa nộp tiền phạt.

Tiền án:

Ngày 20/4/2018, bị Tòa án nhân dân thị xã Long Khánh (nay là Tòa án nhân dân thành phố Long Khánh) xử phạt 08 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 56/2018/HSST ngày 20/4/2018, chấp hành xong ngày 13/3/2019. Hiện chưa đóng án phí HSST.

Ngày 28/02/2020, bị Tòa án nhân dân thành phố Long Khánh xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Trộm cắp tài sản”. Hiện bị cáo đang được hoãn thời hạn chấp hành hình phạt tù.

Ngày 05/8/2020, bị Tòa án nhân dân thành phố Long Khánh xử phạt 10 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Đang hoãn thi hành án hình phạt tù do nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi).

Ngày 23/12/2020, bị Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai xử phạt 02 năm 02 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Bị cáo S bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”, có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại:

+ Cháu Nguyễn Khánh L, sinh ngày: 15/6/2004. Địa chỉ: Khu phố TP, phường XT, thành phố LK, tỉnh Đồng Nai.

Người đại diện hợp pháp của cháu L: Anh Nguyễn Công L, sinh năm: 1992. Địa chỉ: Khu phố TP, phường XT, thành phố LK, tỉnh Đồng Nai.

+ Cháu Trần Duy H, sinh ngày: 13/7/2007. Địa chỉ: Khu phố TT, phường XL, thành phố LK, tỉnh Đồng Nai.

Người đại diện hợp pháp của cháu H: Anh Trần Duy P, sinh năm: 1977 và chị Trần Thị T, sinh năm: 1978. Địa chỉ: Khu phố TT, phường XL, thành phố LK, tỉnh Đồng Nai.

- Người có quyền, nghĩa vụ liên quan:

+ Anh Trần Duy P, sinh năm: 1977 và chị Trần Thị T, sinh năm: 1978. Địa chỉ: Khu phố TT, phường XL, thành phố LK, tỉnh Đồng Nai.

+ Chị Dương Thị Tuyết M, sinh năm: 2002. Địa chỉ: Tổ 12, khu phố 2, phường XH, thành phố LK, tỉnh Đồng Nai.

Bị hại, đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt (có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Thị Chu S là đối tượng đang được hoãn thi hành án do đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi. Để có tiền tiêu xài, S đã nhiều lần thực hiện hành vi phạm tội, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng 13 giờ 00 ngày 30/8/2020, Sa điều khiển xe mô tô biển số 60B2-029.10 (xe của em chồng S là Dương Thị Tuyết M, sinh năm 2002, ngụ tổ 12, khu phố 2, phường XH, thành phố LK) đi đến khu vực phường XT, thành phố LK để tìm tài sản chiếm đoạt. Khi đến nhà của cháu Nguyễn Khánh L, sinh ngày 15/6/2004 tại khu phố TP, phường XT, thành phố LK, thấy nhà khóa cổng ngoài, cửa trong mở, trong nhà không có người lớn, chỉ có cháu L ở trong nhà nên S nảy sinh ý định lừa đảo chiếm đoạt tài sản. S gọi cửa, giới thiệu mình là bạn của chị cháu L và hỏi mượn điện thoại để lưu số điện thoại cho chị của L. Vì tin tưởng S là bạn của chị Nguyễn Thị H (là chị dâu của L) nên L đã vào nhà lấy điện thoại di động hiệu ViVo Y93 màu đen của mình ra đưa cho S. Sau khi lấy được điện thoại S lên xe tẩu thoát. Đến khoảng 14 giờ 00 ngày 31/8/2020, Công an phường XT mời S về làm việc, tại đây S đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Vụ thứ hai: Khoảng 10 giờ 30 ngày 14/10/2020, S điều khiển xe mô tô không rõ biển số (xe không rõ của ai dựng ở nhà S, có sẵn chìa khóa trên xe) đi đến khu vực phường XL, thành phố LK để tìm tài sản chiếm đoạt. Khi đến nhà của cháu Nguyễn Duy H, sinh ngày 13/7/2007, ngụ khu phố TT, phường XL, thành phố LK, thấy trong nhà chỉ có cháu H đang xem tivi một mình, không có người lớn, nên S nảy sinh ý lừa đảo để chiếm đoạt tài sản. Cũng bằng thủ đoạn như trên S gọi cháu H ra hỏi có mẹ ở nhà không và giới thiệu mình là bạn của mẹ cháu cần mượn điện thoại của cháu H để lưu số điện thoại cho mẹ cháu. Vì tin tưởng S là bạn của mẹ nên cháu H đã vào nhà lấy điện thoại di động hiệu Samsung J610F, màu đỏ của cháu ra đưa cho Sa. Khi lấy được điện thoại S lên xe tẩu thoát. Khoảng 12 giờ 00 cùng ngày, Công an phường XL mời S về làm việc, tại đây a đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 111/HĐĐGTSTTTHS ngày 14/9/2020, Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng Hình sự thành phố Long Khánh kết luận:

Một điện thoại di động hiệu VIVO-Y93, màu đen, đã qua sử dụng (thời điểm ngày 30/8/2020) có giá trị là 2.050.000 đồng/cái (bút lục số 14).

Tại bản kết luận định giá tài sản số 128/HĐĐGTSTTTHS ngày 21/12/2020, Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng Hình sự thành phố Long Khánh kết luận:

Một điện thoại di động hiệu Sam Sung, màu đỏ, đã qua sử dụng (thời điểm ngày 30/8/2020) có giá trị là 2.300.000 đồng/cái (bút lục số 15).

Dân sự: Các bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì.

Quá trình điều tra, và tại phiên tòa bị cáo Lê Thị Chu S đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Tại bản Cáo trạng số: 08/CT-VKS-LK ngày 25/12/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Khánh đã truy tố bị cáo Lê Thị Chu S về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 174 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai phát biểu quan điểm: Giữ nguyên cáo trạng truy tố bị cáo về tội danh, và điều luật áp dụng để truy tố bị cáo S về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và đề nghị:

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g, i khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) Xử phạt: Lê Thị Chu S từ 03 năm tù đến 03 năm 06 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tổng hợp hình phạt 05 năm 06 tháng tù của Bản án số 193/2020/HS-ST ngày 23/12/2020 của Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai.

Về dân sự: Các bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì nên không giải quyết.

* Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo nói sau cùng: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo và lời khai của những người tham gia tố tụng khác có trong hồ sơ vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Long Khánh, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Long Khánh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh và điều luật áp dụng: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội do mình thực hiện như nội dung Cáo trạng đã nêu, lời khai nhận tội này phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, kết luận định giá tài sản và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Khoảng 13 giờ 00 ngày 30/8/2020, tại nhà của cháu Nguyễn Khánh L, địa chỉ: phường XT, thành phố LK, Lê Thị Chu S đã dùng thủ đoạn gian dối lừa đảo chiếu đoạt của cháu L một điện thoại di động hiệu ViVo Y93 màu đen có giá trị là giá 2.050.000 đồng/cái. Đến khoảng 10 giờ 30 ngày 14/10/2020, tại nhà của cháu Nguyễn Duy H, địa chỉ: Khu phố TT, phường XL, thành phố LK, S tiếp tục dùng thủ đoạn gian dối lừa đảo chiếu đoạt của cháu Nguyễn Duy H một điện thoại di động Samsung J610F, màu đỏ, có giá trị là 2.300.000 đồng/cái. Do trước đó bị cáo đã tái phạm nguy hiểm nên lần phạm tội này bị cáo bị áp dụng tình tiết định khung là “tái phạm nguy hiểm” Giá trị tài sản chiếm đoạt từng lần đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm; bị cáo chiếm đoạt tài sản của cháu Nguyễn Duy H là người dưới 16 tuổi nên bị cáo phải bị áp dụng tình tiết tăng nặng “phạm tội 02 lần trở lên” và “phạm tội đối với người dưới 16 tuổi” được quy định tại điểm g, i khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Như vậy, hành vi của bị cáo S đã phạm vào tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) như kết luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác, được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an, an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo đã bị 04 lần Tòa án kết án về các tội “trộm cắp tài sản”, “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Trong thời gian được tạm hoãn thi hành án do đang nuôi con nhỏ, bị cáo lại tiếp tục phạm tội, chứng tỏ bị cáo không ăn năn hối cải, không chịu sửa chữa lỗi lầm.

Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, xét tội phạm mà bị cáo thực hiện là nghiêm trọng. Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Do đó, cần phải có một mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ và hành vi của bị cáo nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, bị cáo đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, nên cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.

[4] Tổng hợp hình phạt: Bản án số 66/2020/HS-ST ngày 05/8/2020, Tòa án nhân dân thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai xử phạt bị cáo 10 tháng tù về tội “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; tổng hợp với hình phạt 02 năm 06 tháng tù tại Bản án số 19/2020/HS-ST ngày 28/02/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung là: 03 năm 04 tháng tù; tổng hợp với hình phạt 02 năm 02 tháng tù tại Bản án số 193/2020/HS-ST ngày 23/12/2020 của Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung là: 05 năm 06 tháng tù. Do đó, cần tổng hợp hình phạt của bản án này với hình phạt chung tại bản án số 193/2020/HS-ST ngày 23/12/2020 theo quy định pháp luật.

[5] Về xử lý vật chứng, trách nhiệm dân sự: Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã nhận lại tài sản không có yêu cầu gì thêm nên không xem xét.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật. Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lê Thị Chu S phạm vào tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản".

Căn cứ theo điểm d khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g, i khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)

Xử phạt: Bị cáo Lê Thị Chu S năm tù 03 (ba) năm tù. Tổng hợp với hình phạt chung 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù tại Bản án số 193/2020/HS-ST ngày 23/12/2020 của Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai. Buộc bị cáo Lê Thị Chu S phải chấp hành hình phạt chung là 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

2. Về trách nhiệm dân sự: Đã giải quyết xong.

4. Về án phí: Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTTQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Lê Thị Chu S phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo đối với Bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, đại diện hợp pháp của bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày Tòa án tống đạt bản án hợp lệ.

Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp, Viện kiểm sát nhân dân cấp trên được quyền kháng nghị theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

351
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 15/2021/HS-ST

Số hiệu:15/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Khánh - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về