Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 15/2020/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH HƯNG YÊN

BẢN ÁN 15/2020/HS-ST NGÀY 20/03/2020 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 3 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 16/2020/TLST-HS ngày 17 tháng 02 năm 2020. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 12/2020/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 02 năm 2020, đối với bị cáo:

* Đinh Khánh D, sinh năm 1988; Nơi cư trú: Khu A, phường B, thành phố C, tỉnh C; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Đinh Văn D và bà Nguyễn Thị Lan H; Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân:

- Bản án số 42/2019/HS-ST ngày 08/10/2019 của TAND tỉnh Thái Bình xử phạt 01 năm tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

- Bản án số 63/2019/HS-ST ngày 12/11/2019 của TAND thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 09 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

- Bản án số 178/2019/HS-ST ngày 28/11/2019 của TAND huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội xử phạt 08 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tổng hợp với hình phạt 12 tháng tù của Bản án số 42/2019/HS-ST ngày 08/10/2019 của TAND tỉnh Thái Bình. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 20 tháng tù.

- Bản án số 01/2020/HS-ST ngày 10/01/2020 của TAND quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội xử phạt 07 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tổng hợp với hình phạt 20 tháng tù của Bản án số 178/2019/HS-ST ngày 28/11/2019 của TAND huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội và hình phạt 09 tháng tù tại Bản án số 63/2019/HS-ST ngày 12/11/2019 của TAND thành phố Sông Công, tỉnh Thái Nguyên. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 03 bản án là 36 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27/6/2019.

Bị cáo hiện đang bị tạm giam trong vụ án khác tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Bình, (vắng mặt).

* Bị hại:

- Anh An Tiến D, sinh năm 1982. Địa chỉ: Đường D, thị trấn E, huyện G, tỉnh Hưng Yên, (vắng mặt).

- Anh Tạ Hồng M, sinh năm 1991. Địa chỉ: Đường H, thị trấn E, huyện G, tỉnh Hưng Yên, (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng giữa năm 2015, Đinh Khánh D có đăng ký lập và sử dụng 02 tài khoản Facebook có tên “Linh My Bien” (sau này đổi tên thành “B”) và “A”, sử dụng hình ảnh cá nhân của người khác (hình ảnh lấy trên mạng Internet mà D không biết là ai, ở đâu) để làm hình ảnh đại diện. Vào đầu năm 2017, D lên mạng Intrenet để tìm mua chứng minh nhân dân, bằng lái xe của người khác với mục đích khi có người kiểm tra giấy tờ sẽ đưa ra. Qua trao đổi với một người không quen biết trên mạng Internet, D đã đồng ý mua giấy chứng minh nhân dân, bằng lái xe và thẻ ngân hàng Vietcombank số 00110043xxxxx mang tên Khương Văn V, sinh năm 1996, trú tại xã I, huyện K, tỉnh Thanh Hóa với giá 500.000 đồng. Do không có công ăn việc làm ổn định, thông qua tìm hiểu trên mạng Internet, D biết đến hình thức lừa đảo chiếm đoạt tài sản qua hình thức quảng cáo bán điện thoại giá rẻ nên vào đầu năm 2017 D đã nảy sinh ý định sử dụng hai tài khoản Facebook “B”, “A” và tài khoản Ngân hàng mang tên Khương Văn V tại ngân hàng Vietcombank để lừa đảo chiếm đoạt tài sản và nhận tiền của các bị hại. Sau đó đến khoảng cuối năm 2017, D tiếp tục lên mạng và mua được giấy chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Ngọc D, sinh năm 1992, trú tại xã N, huyện M, thành phố Hà Nội từ một người không quen biết. D ra ngân hàng Vietcombank chi nhánh Chương Dương, Hà Nội lập tài khoản số 0541000xxxxx1 và tài khoản số 27001117xxxxx tại Ngân hàng MBBank chi nhánh C mang tên Nguyễn Ngọc D.

Sau đó, D sử dụng hai tài khoản Ngân hàng Vietcombank mang tên Nguyễn Ngọc D và Khương Văn V để nhận tiền lừa đảo được từ các bị hại. Để sử dụng tài khoản Ngân hàng mang tên Nguyễn Ngọc D, Đinh Khánh D cài đặt và sử dụng dịch vụ Internet banking (dịch vụ chuyển tiền thông qua mạng Internet) và dịch vụ SMS banking (dịch vụ thông báo biến động tài khoản) qua số điện thoại là 039492xxxx. Đinh Khánh D đăng tải những bài viết quảng cáo bán điện thoại di động, máy tính bảng giá rẻ trên hai tài khoản Facebook “B” và “A” mặc dù không có điện thoại, máy tính bảng để bán. Khi có tài khoản Facebook khác kết bạn, nhắn tin hỏi mua điện thoại, máy tính bảng, D sử dụng hai tài khoản Facebook “B” và “A” để trả lời, trao đổi thông tin về giá cả điện thoại, thông tin cửa hàng và số điện thoại liên hệ của cửa hàng. Trên thực tế, D không hề có cửa hàng điện thoại nào để bán điện thoại và máy tính bảng. Khi người bị hại đồng ý mua hàng, D yêu cầu họ chuyển tiền trước vào một trong các tài khoản Ngân hàng của D. Sau khi bị hại chuyển tiền, D sẽ chặn tin nhắn, tạm khóa Facebook, chặn liên lạc với bị hại và chiếm đoạt số tiền đó. Cụ thể D đã hai lần thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người ở tỉnh Hưng Yên như sau:

Lần thứ nhất: Vào khoảng tháng 01/2018, anh An Tiến D, sinh năm 1982, HKTT: Đường D, thị trấn E, huyện G, tỉnh Hưng Yên sử dụng tài khoản trên mạng xã hội Facebook của mình là “A” kết bạn với tài khoản Facebook có tên “A”. Khi thấy tài khoản Facebook “A” có đăng các bài quảng cáo bán điện thoại Iphone giá rẻ nên anh D có liên hệ và hỏi mua 05 chiếc điện thoại Iphone 5s và 05 chiếc điện thoại Iphone 6 với tổng giá trị là: 29.850.000 đồng. Sau khi thỏa thuận xong, D yêu cầu anh D chuyển số tiền 30.000.000 đồng (gồm cả phí ship) vào số tài khoản 00110043xxxxx mang tiên V tại Ngân hàng Vietcombank thì D sẽ chuyển hàng ngay. Khi nói chuyện trên Facebook với anh D, D có trao đổi là sử dụng số điện thoại 039492xxxx để liên hệ, tuy nhiên khi anh D chuyển số tiền 30.000.000 đồng cho D thì D chặn tài khoản Facebook “A”, tạm thời khóa tài khoản Facebook “A”, chặn liên lạc với anh D và không chuyển hàng cho anh D. Đối với số tiền 30.000.000đ, D đã sử dụng thẻ ATM rút tiền và tiêu xài cá nhân hết.

Lần thứ hai: Vào khoảng giữa tháng 4/2018, anh Tạ Hồng M, sinh năm 1991, HKTT: Đường H, thị trấn E, huyện G, tỉnh Hưng Yên sử dụng tài khoản trên mạng xã hội Facebook của mình là “Smart phone Q” kết bạn với tài khoản Facebook “B”. Khi thấy tài khoản Facebook “B” có đăng các bài quảng cáo bán điện thoại Iphone giá rẻ nên anh M có liên hệ và hỏi mua 08 chiếc Ipar air và 10 chiếc điện thoại Iphone 5s với tổng giá trị là: 49.590.000 đồng. Sau khi thỏa thuận xong, ngày 06/6/2018 anh M sử dụng dịch vụ Internet banking chuyển 49.590.000 đồng vào số tài khoản 0541000xxxxx1 tại Ngân hàng Vietcombank mang tên D. Khi nói chuyện trên Facebook với anh M, D có trao đổi số điện thoại 09315xxxxx là số điện thoại hotlines của cửa hàng Dũng Mobile, địa chỉ tại 170 Lý Thường Kiệt, Đà Nẵng để liên hệ. Tuy nhiên, sau khi anh M chuyển tiền thì D chặn tài khoản Facebook “Smart phne Q”, không liên lạc với anh M, không chuyển hàng cho anh M. Đối với số tiền 49.590.000đ, D đã sử dụng dịch vụ Internet banking chuyển toàn bộ sang tài khoản MBbank số 27001117xxxxx mang tên Nguyễn Ngọc D, sau đó rút tiền và tiêu sài cá nhân hết.

Tại bản sao kê của Ngân hàng Vietcombank ngày 01/10/2019 đã xác định, ngày 06/6/2018 tài khoản Ngân hàng của Tạ Hồng M đã chuyển khoản số tiền 45.590.000 đồng vào tài khoản số 0541000xxxxx1 mang tên D và ngày 19/01/2019 anh An Tiến D đã chuyển khoản tiền 30.000.000 đồng vào tài khoản số 00110043xxxxx mang tên V.

Về trách nhiệm dân sự: Trong giai đoạn điều tra Đinh Khánh D đã tác động gia đình khắc phục hậu quả, bồi thường cho anh D số tiền 30.000.000 đồng và anh M số tiền 45.590.000 đồng. Anh D, anh M đều xác định đã nhận lại đủ số tiền bị D lừa đảo và đều có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo D.

Quá trình điều tra, bị cáo Đinh Khánh D đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Tại bản cáo trạng số 18/QĐ-VKS-P3 ngày 14/02/2020 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hưng Yên tỉnh Hưng Yên đã truy tố bị cáo Đinh Khánh D về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự.

mặt.

Tại phiên tòa:

Vắng mặt bị cáo Đinh Khánh D nhưng có đơn xin vắng mặt.

Vắng mặt các bị hại An Tiến D, Tạ Hồng M đều có đơn xin xét xử vắng Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hưng Yên đề nghị Hội đồng xét xử, xử vụ án vắng mặt bị cáo Đinh Khánh D và các bị hại An Tiến D, Tạ Hồng M. Hội đồng xét xử, xét thấy bị cáo, các bị hại đều tự nguyện và có đơn xin xét xử vắng mặt, nên căn cứ điểm c khoản 2 Điều 290; khoản 1 Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự, xét xử vụ án vắng mặt bị cáo Đinh Khánh D và các bị hại An Tiến D, Tạ Hồng M.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hưng Yên giữ nguyên quan điểm truy tố như nội dung bản cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử, tuyên bố bị cáo Đinh Khánh D phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 56 Bộ luật hình sự, xử phạt: Đinh Khánh D từ 03 năm tù đến 03 năm 06 tháng tù. Tổng hợp với hình phạt 36 (ba mươi sáu) tháng tù của bản án số 01/2020/HS-ST ngày 10/01/2020 của Tòa án nhân dân quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của các bản án là từ 06 năm tù đến 06 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27/6/2019; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra xem xét do các bị hại đã nhận lại đủ số tiền bị chiếm đoạt và không có đề nghị gì khác; về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan Điều tra - Công an tỉnh Hưng Yên, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hưng Yên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng từ giai đoạn điều tra cho đến phiên tòa sơ thẩm đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Lời khai nhận tội của bị cáo Đinh Khánh D tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của các bị hại và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, như: Nội dung các tin nhắn trao đổi giữa bị cáo và bị hại trên ứng dụng Messenger; giấy chuyển tiền vào tài khoản; bản sao kê tài khoản Ngân hàng Vietcombank mang tên Nguyễn Ngọc D, Khương Văn V; tài khoản Ngân hàng MBbank mang tên Nguyễn Ngọc D... đã có đủ cơ sở kết luận: Để có tiền tiêu xài cá nhân, trong khoảng thời gian từ tháng 01/2018 đến tháng 4/2018, Đinh Khánh D đã dùng thủ đoạn gian dối, lập tài khoản Facebook lấy tên là “B” và “A”, sau đó đăng tải các bài viết quảng cáo bán điện thoại di động giá rẻ trên các tài khoản Facebook trên để lừa đảo chiếm đoạt 30.000.000 đồng của anh An Tiến D và 45.590.000 đồng của anh Tạ Hồng M.

Bị cáo Đinh Khánh D là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi đưa thông tin không đúng sự thật để chiếm đoạt tài sản của các bị hại như nêu trên đã đủ yếu tố cấu thành tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hưng Yên giữ nguyên nội dung bản Cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo Đinh Khánh D là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Về tính chất hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ; làm mất trật tự trị an xã hội; gây tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân; làm ảnh hưởng đến uy tín của các cá nhân hoạt động kinh doanh trên mạng xã hội. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm, dành cho bị cáo mức hình phạt thỏa đáng, tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện.

[4]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo đã 02 lần thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản và mỗi lần đều đủ yếu tố cấu thành tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “phạm tội 02 lần trở lên”, quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bản thân; bị cáo đã tác động gia đình bồi thường toàn bộ thiệt hại cho các bị hại; bị hại có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo; bị cáo có mẹ đẻ được Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo tặng Kỷ niệm chương vì sự nghiệp giáo dục. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo được hưởng theo quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Hội đồng xét xử sẽ xem xét áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Về nhân thân: Thời điểm thực hiện hành vi phạm tội bị cáo không có tiền án, tiền sự. Tuy nhiên, ngoài lần phạm tội này bị cáo Đinh Khánh D đã 3 lần bị kết án về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản nên là người có nhân thân xấu.

[5]. Về hình phạt:

Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo; trên cơ sở đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

Ngoài hình phạt tại bản án này, bị cáo còn bị tổng hợp hình phạt 36 tháng tù tại bản án số 01/2020/HS-ST ngày 10/01/2020 của Tòa án nhân dân quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội để buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của các bản án theo Điều 56 Bộ luật hình sự.

* Về hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội với động cơ vụ lợi, lẽ ra phải phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo không có nghề nghiệp và không có tài sản gì lớn nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6]. Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại là các anh An Tiến D, Tạ Hồng M đã nhận lại đủ số tiền đã bị chiếm đoạt và không có đề nghị gì khác nên HĐXX không xem xét.

[7]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo theo Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 3 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt:

Tuyên bố: Bị cáo Đinh Khánh D phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Áp dụng: Điểm c khoản 2 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 56 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Đinh Khánh D 03 (ba) năm tù. Tổng hợp với hình phạt 36 (ba mươi sáu) tháng tù của bản án số 01/2020/HS-ST ngày 10/01/2020 của Tòa án nhân dân quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 06 (sáu) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 27/6/2019.

* Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Đinh Khánh D.

2. Về án phí: Bị cáo Đinh Khánh D phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

31
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 15/2020/HS-ST

Số hiệu:15/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hưng Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về