TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN DU, TỈNH BẮC NINH
BẢN ÁN 150/2023/HS-ST NGÀY 16/08/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 16 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 146/2023/HSST ngày 14 tháng 7 năm 2023 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 149/2023/QĐXXST - HS ngày 02 tháng 8 năm 2023 đối với bị cáo:
Đỗ Quốc Q, sinh năm 1984; HKTT: Thôn A, xã A, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.
Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đỗ Quốc C, sinh năm 1960 và bà Phạm Thị T, sinh năm 1960; Vợ: Phạm Thị D, sinh năm 1986; con: có 03 con, lớn sinh năm 2004, nhỏ sinh năm 2017.
Tiền sự: Không. Tiền án: Không.
Bị cáo bị tạm giam từ ngày 18/11/2022 đến nay, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh (Có mặt tại phiên tòa).
Bị hại:
1. Anh Nguyễn Văn Chung, sinh năm 1993 (Có mặt);
2. Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1988 (Có mặt);
Cùng địa chỉ: Thôn Th, xã D, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.
* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Chị Nguyễn Thị D, sinh năm 1986 (Có mặt);
Địa chỉ: Thôn A, xã A, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.
2. Anh Ngô Văn Hoài, sinh năm 1980 (Có mặt);
Địa chỉ: Thôn T, xã P, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh.
3. Ngân hàng TMCP Việt Nam T (V);
Địa chỉ trụ sở chính: Số 89 L, phường L, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội. Người đại diện theo pháp luật công ty: Ông Ngô Chí D – Chủ tịch hội đồng quản trị.
*Người đại diện theo ủy quyền:
1. Ông Cao Duy Th, chức vụ: Trưởng bộ phận xử lý nợ (Vắng mặt);.
Địa chỉ: Tầng 7, Toà nhà V, số 78, D, quận Cầu Giấy, Hà Nội.
2. Ông Bùi Nguyên Th, chức vụ: Chuyên viên xử lý nợ (Có mặt);.
Địa chỉ: 225G, đường H, phường L, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
HQuốc Q và Ngô Văn Hoài có mối quan hệ bạn bè xã hội. Q có nợ tiền làm ăn kinh doanh của Hoài từ năm 2019.
Anh Nguyễn Văn Chung và anh Nguyễn Văn H, có quan hệ họ hàng với nhau. Anh Chung và anh H làm nghề mua bán xe ô tô cũ, không quen biết, không mâu thuẫn nợ nần gì với Q.
Năm 2016, Q cùng vợ là chị Phạm Thị D, sinh năm 1986, có HKTT: thôn A, xã A, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình mua 01 chiếc xe ô tô tải màu trắng nhãn hiệu CNHTC, đăng ký BKS: 17C - X mang tên Q trị giá 483.000.000 đồng bằng hình thức trả góp tại Ngân hàng TMCP Việt Nam T chi nhánh Th Long (Viết tắt: Ngân hàng V) trong thời gian 72 tháng từ 05/7/2016 đến 05/7/2022, số tiền trả trước: 200.000.000 đồng. Sau khi mua xe, Ngân hàng V đã giữ bản chính Giấy chứng nhận đăng ký xe ôtô trên, còn Q sử dụng xe ô tô làm phương tiện kinh doanh vận tải hàng hóa. Ngân hàng V sẽ cấp cho Q 01 Giấy biên nhận giữ bản chính giấy chứng nhận đăng ký phương tiện giao thông đang thế chấp (gọi tắt: Giấy biên nhận thế chấp) thời hạn 6 tháng một lần nếu Q thanh toán tiền nợ đầy đủ để Q lưu thông xe trên đường và làm căn cứ để đi đăng kiểm xe khi đến hạn.
Đến đầu năm 2019, do làm ăn không thuận lợi, Q không có khả năng thanh toán tiền trả góp cho Ngân hàng V nên Ngân hàng không cung cấp cho Q giấy biên nhận thế chấp nữa. Do vậy, Q đã nảy sinh ý định làm giả Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô BKS: 17C - X để đi lại. Sau đó, Q lên mạng xã hội Facebook tìm kiếm các trang làm giả giấy tờ xe ô tô và liên hệ với 01 người thanh niên không quen biết qua tin nhắn Messenger đặt vấn đề làm giả giấy chứng nhận đăng ký của xe ô tô. Người thanh niên này đồng ý làm giấy đăng ký xe ô tô giả cho Q với giá 2.000.000 đồng. Q đã chụp lại giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô BKS: 17C - X (bản phô tô) gửi cho người này. Khoảng 01 tuần sau, Q nhận được Giấy đăng ký ô tô giả và thanh toán cho nhân viên giao hàng số tiền 2.000.000 đồng. Sau đó, Q sử dụng Giấy đăng ký ô tô giả này để lưu thông vận chuyển hàng hóa.
Đến tháng 3/2019, do không có khách thuê vận tải nên Q đã vay anh Hoài số tiền 97.000.000 đồng và đem chiếc xe ô tô tải BKS 17C - X đến nhà Hoài gửi lại đây cho Hoài sử dụng, đồng thời Q đưa cho Hoài toàn bộ giấy tờ xe gồm giấy đăng ký xe ô tô giả, giấy chứng nhận đăng kiểm và bảo hiểm của xe. Khi này, Q không nói cho anh Hoài biết chiếc đăng ký xe ô tô đó là giả và xe đang là tài sản thế chấp tại ngân hàng. Do tin tưởng Q, anh Hoài đã cho Q vay số tiền trên và sử dụng chiếc xe ô tô trên để chở giấy phế liệu phục vụ công việc kinh doanh của mình. Trong quá trình sử dụng xe ô tô này, anh Hoài đã đem xe đi sửa chữa và đã 02 lần sử dụng giấy đăng ký xe ô tô mà Q đã đưa để đi đăng kiểm xe và đều đăng kiểm được. Cụ thể: Ngày 05/3/2021, Hoài đã đem chiếc xe này đến Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới 99-05D có địa chỉ tại: xã Trạm Lộ, TX. Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh và được cấp 01 giấy chứng nhận kiểm định số KD-6493641. Ngày 14/3/2022, anh Hoài tiếp tục nhờ anh Vũ Văn Bảy, sinh năm 1995 có HKTT: thôn Bút Tháp, xã Đình Tổ, TX. Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh đem xe ô tô này đi đăng kiểm tại Trung tâm đăng kiểm giao thông vận tải tỉnh Bắc Ninh có địa chỉ tại: phường Tam Sơn, TP. Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh và được cấp 01 giấy chứng nhận kiểm định số DA-1133067.
Khoảng tháng 4/2022, do không có tiền làm ăn nên Q nảy sinh ý định bán chiếc xe ô tô BKS 17C - X. Đầu tháng 5/2022, anh Chung và anh H có nhu cầu tìm mua xe tải cũ để kinh doanh và biết Q có xe ô tô muốn bán nên đã liên hệ đặt vấn đề mua chiếc xe này với Q, Q đồng ý và cho anh Chung, anh H số điện thoại của anh Hoài để liên hệ xem xe. Sáng ngày 08/5/2022, anh Chung gọi điện cho anh Hoài và cùng anh H đến nhà của anh Hoài ở thôn T, xã P xem xe và thỏa thuận giá cả mua bán. Sau khi anh Chung và anh H xem xe, anh Hoài bảo với anh Chung là trao đổi thỏa thuận giá cả mua bán với Q (khi này Q đang ở Thái Bình). Anh Chung đã gọi điện thỏa thuận thống nhất với Q giá mua bán xe ô tô trên là 416.000.000 đồng, Q đồng ý và không nói gì với anh Chung về việc xe đang trả góp tại ngân hàng V. Khi này, Q đã viết tay 01 giấy bán chiếc xe ô tô trên rồi chụp ảnh gửi cho anh Chung qua Zalo kèm theo ảnh Giấy đăng ký kết hôn, căn cước công dân của Q và vợ Q để tạo lòng tin cho anh Chung. Sau đó, Q bảo anh Chung là chuyển số tiền 200.000.000 đồng mua xe vào tài khoản ngân hàng MBBank của Q, còn lại số tiền 216.000.000 đồng thì thanh toán cho anh Hoài để Q trả nợ anh Hoài. Anh Chung đồng ý và đã chuyển khoản số tiền này từ tài khoản của anh vào tài khoản của Q, anh H chuyển khoản số tiền 216.000.000 đồng từ tài khoản của anh H vào tài khoản ngân hàng của anh Hoài. Sau khi anh Chung và anh H thanh toán tiền mua xe xong, anh Hoài đã viết tay 01 giấy làm chứng việc mua bán xe giữa Q và anh Chung giao cho anh Chung cầm và giao toàn bộ giấy tờ xe ô tô (trong đó có Giấy đăng ký xe giả) cho anh Chung. Sau đó, anh Chung và anh H đã sử dụng xe làm phương tiện kinh doanh.
Đến tháng 7/2022, anh Chung đem giấy tờ xe ô tô trên đến phòng CSGT Công an tỉnh Thái Bình xin rút hồ sơ đăng ký xe để làm thủ tục sang tên đổi chủ thì được thông báo giấy đăng ký xe ô tô trên là giả và xe đang thế chấp tại ngân hàng nên không làm thủ tục rút hồ sơ được. Anh Chung đã liên lạc hỏi anh Hoài thì anh Hoài nói không biết Giấy đăng ký xe là giả và bảo anh Chung liên hệ với Q. Anh Chung và anh H đã liên lạc và đến tìm Q nhưng Q trốn tránh không gặp.
Sau nhiều lần liên lạc với Q không được, ngày 15/8/2022, anh Chung và anh H đã đến cơ quan CSĐT Công an huyện Tiên Du trình báo và giao nộp toàn bộ giấy tờ xe ô tô đã mua của Q gồm: 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 008650 mang tên chủ xe là Đỗ Quốc Q, biển số đăng ký: 17C - X cấp ngày 30/6/2016, 01 giấy chứng nhận kiểm định; 01 giấy bảo hiểm trách nhiệm dân sự và 01 giấy biên lai thu phí đường bộ của xe ô tô trên.
Ngày 13/9/2022, C quan CSĐT Công an huyện Tiên Du ra Quyết định trưng cầu giám định giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số 008650 mang tên chủ xe là Đỗ Quốc Q, biển số đăng ký: 17C - X cấp ngày 30/6/2016 để xác định Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô trên là thật hay giả và phương pháp làm giả. Tại Bản kết luận giám định số: 1468/KL-KTHS ngày 16/9/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận: “Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số: 008650 mang tên chủ xe là Đỗ Quốc Q, biển số đăng ký: 17C – X là giả. Phương pháp làm giả: in phun màu”.
Ngày 05/10/2022, cơ quan CSĐT đã ra Công văn yêu cầu định giá tài sản là chiếc xe ô tô tải màu trắng nhãn hiệu CNHTC, BKS: 17C - X. Tại bản kết luận định giá tài sản số: 100/KL-ĐGTSTTHS ngày 07/11/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tiên Du kết luận: 01 chiếc ô tô nhãn hiệu CNHTC, loại ZZ1254K, BKS: 17C-X, màu trắng, trọng tải 8.700kg, có giá trị còn lại là 416.000.000 đồng.
Ngày 17/8/2022, cơ quan CSĐT Công an huyện Tiên Du đã tiến hành kiểm tra tin nhắn Zalo trong điện thoại di động của anh Nguyễn Văn Chung, xác định tin nhắn và ảnh chụp Giấy bán xe viết tay, căn cước công dân, Giấy đăng ký kết hôn của vợ chồng Q mà Q đã gửi cho anh Chung để tạo lòng tin để anh Chung và anh H mua chiếc xe ô tô của Q.
Ngày 25/8/2022, cơ quan CSĐT đã tiến hành thu thập sao kê tài khoản 2605205127191 của anh Ngô Văn Hoài tại ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh Bắc Ninh II xác định ngày 08/5/2022, tài khoản của anh Nguyễn Văn H đã chuyển khoản số tiền 216.000.000 đồng vào tài khoản này của anh Hoài.
Ngày 26/8/2022, cơ quan CSĐT đã tiến hành thu thập sao kê tài khoản 3406205212148 của Đỗ Quốc Q tại ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam chi nhánh Bắc Thái Bình xác định ngày 08/5/2022, tài khoản của anh Nguyễn Văn Chung đã chuyển khoản số tiền 200.000.000 đồng vào tài khoản này của Q.
Ngày 16/11/2022, cơ quan CSĐT đã triệu tập Đỗ Quốc Q đến cơ quan CSĐT Công an huyện Tiên Du làm việc. Tại đây, Q đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên. Q khai nhận số tiền có được từ hành vi lừa đảo bán chiếc xe ô tô trên cho anh Chung và anh H là 200.000.000 đồng Q đã chi tiêu cá nhân hết, số tiền còn lại Q đã thỏa thuận với anh Hoài là thanh toán tiền Q đã vay của anh Hoài, còn thừa thì Q sẽ lấy sau.
Ngày 18/11/2022, cơ quan CSĐT đã tiến hành kiểm tra điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy S21 Ultra của Đỗ Quốc Q xác định có tin nhắn zalo giữa Q tài khoản “Q Q” với tài khoản zalo “Chung Nguyên” của anh Chung về giao dịch mua bán xe ô tô.
* Về vật chứng và xử lý vật chứng:
Đối với 01 Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô số: 008650 mang tên chủ xe là Đỗ Quốc Q, biển số đăng ký: 17C - X là tài liệu giả Q đã làm do anh Chung giao nộp được lưu giữ trong hồ sơ vụ án.
Đối với 01 chiếc xe ô tô tải BKS: 17C - X mà Q đã bán cho anh Chung hiện nay anh Nguyễn Văn Chung đang quản lý. Quá trình điều tra, ngày 27/02/2023, cơ quan CSĐT đã ra quyết định tạm giữ và yêu cầu anh Chung giao nộp. Tuy nhiên, đến nay anh Chung kiên quyết không giao nộp chiếc xe này.
Ngày 16/11/2022, Đỗ Quốc Q đã tự nguyện giao nộp cho cơ quan CSĐT:
01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy S21 Ultra kèm simcard. Đây là chiếc điện thoại của Q đã sử dụng liên lạc để làm giả giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô và giao dịch bán cho anh Nguyễn Văn Chung và anh Nguyễn Văn H.
Ngày 13/02/2023, anh Ngô Văn Hoài đã tự nguyện giao nộp cho cơ quan CSĐT số tiền 10.000.000 đồng là một phần tiền mà Q đã chuyển cho anh khi Q phạm tội. Số tiền còn lại anh Hoài đã chi tiêu cá nhân hết.
Đối với 01 giấy bán xe ô tô mà Q viết tay rồi chụp ảnh gửi qua zalo cho anh Chung và 01 giấy làm chứng việc bán xe ô tô do anh Hoài viết tay đưa cho anh Chung giữ, đến nay Q và anh Chung đã làm thất lạc, không thu hồi được.
* Về trách nhiệm dân sự: Đối với số tiền 416.000.000 đồng mà các bị hại anh Nguyễn Văn Chung và anh Nguyễn Văn H đã bỏ ra mua chiếc xe ô tô tải BKS:
17C-X của Q, anh Chung và anh H yêu cầu Q phải bồi thường cho hai anh toàn bộ số tiền này. Đến nay, Q chưa bồi thường cho anh Chung và anh H khoản tiền nào.
Đối với chiếc xe ô tô tải BKS: 17C - X là tài sản mà Q đã thế chấp tại Ngân hàng V, đến nay ngân hàng V xác nhận đang giữ bản chính Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô này và Q còn nợ số tiền vay mua xe ô tô trên chưa thanh toán với tổng số tiền nợ là 644.045.176 đồng, trong đó nợ gốc là 308.592.000 đồng. Ngân hàng V đề nghị thu hồi chiếc xe ô tô trên để xử lý thu hồi khoản nợ mà Q chưa thanh toán.
Quá trình điều tra bị cáo Đỗ Quốc Q đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của bản thân như đã nêu ở trên.
Với nội dung trên, tại bản Cáo trạng số: 91/CT-VKSTD ngày 13/7/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Truy tố bị cáo Q về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1, Điều 341 và điểm a, khoản 3, Điều 174 Bộ luật hình sự.
Quá trình xét hỏi tại phiên toà bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Bị cáo đề nghị anh Hoài phải có trách nhiệm cùng với bị cáo phải trả anh Hoà số tiền 216.000.000 đồng, còn việc anh Hoài tự nguyện nộp số tiền 56.000.000 đồng bị cáo đồng ý nhận để sau này trả cho bị hại.
Tại phiên toà bị hại anh Chung trình bày: Về TNHS đề nghị giải quyết theo quy định pháp luật. Về TNDS: Yêu cầu anh Hoài phải có trách nhiệm cùng bị cáo Q. Bị cáo Q phải bồi thường cho anh số tiền 200.000.000 đồng do anh biết chủ xe là của Q nhưng anh giao dịch với cả Hoài và Q.
Anh Hoà nhất trí với ý kiến anh Chung, anh yêu cầu bị cáo Q và anh Hoài phải có trách nhiệm bồi thường cho anh số tiền 216.000.000 đồng, do anh Hoài và Q cùng giao dịch với anh và Chung, còn việc vay nợ giữa bị cáo và anh Hoài là việc riêng của hai người. Đối với chiếc chiếc xe hiện nay anh đang giữ khi nào bị cáo Q và anh Hoài trả hết tiền thì anh và Chung sẽ giao trả xe.
Ngoài ra không có ý kiến yêu cầu gì.
Người liên quan anh Hoài trình bày: Giữ nguyên quan điểm đã trình bày, anh không biết việc Q làm giả đăng ký xe, không biết việc chiếc xe trên Q mua trả góp tại ngân hàng. Anh Hoà có chuyển cho anh số tiền 216.000.000 đồng, trong số tiền trên bị cáo Q trả anh 160.000.000 đồng tiền vay, hai bên không có giấy tờ gì, còn lại Q cho anh vay 56.000.000 đồng vì biết anh đang khó khăn. Nay anh tự nguyện giao nộp tại C quan điều tra số tiền 10.000.000 đồng, số tiền còn lại anh chi tiêu hết và quá trình chờ xử anh đã tự nguyện nộp số tiền 46.000.000 đồng tại Chi cục THADS huyện Tiên Du để chờ xử lý giúp bị cáo Q. Đối với tổng số tiền 56.000.000 đồng đã giao nộp anh đồng ý xử lý để trả cho bị hại giúp bị cáo Q. Anh Hoà yêu cầu anh phải cùng Q phải trả số tiền còn lại anh không đồng ý vì việc mua bán xe là của chủ xe bị cáo Q với các bị hại, anh không liên quan.
Ông Bùi Duy Th đại diện ngân hàng VP Bank trình bày: Đối với chiếc xe ô tô tải BKS: 17C - X là tài sản mà Q đã thế chấp tại Ngân hàng V, đến nay ngân hàng V đang giữ bản chính Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô này và Q còn nợ số tiền vay mua xe ô tô trên chưa thanh toán với tổng số tiền nợ là 644.045.176 đồng, trong đó nợ gốc là 308.592.000 đồng. Ngân hàng V đề nghị bị cáo Q phải thanh toán cả gốc và lãi trong vụ án này, nếu vợ chồng bị cáo Q không trả được nợ thì đề nghị thu hồi chiếc xe ô tô trên để xử lý thu hồi khoản nợ của Q cho Ngân hàng V.
Chị Phạm Thị D trình bày: Chị là vợ của bị cáo Q, chiếc xe ô tô trên là tài sản chung của vợ chồng, tuy nhiên sau khi mua xe ô tô trả góp thì Q đã quản lý và sử dụng chiếc xe, đồng thời Q cũng là người trực tiếp giao dịch với ngân hàng, chị không liên quan đến chiếc xe. Chị không biết việc Q làm giả giấy đăng ký xe ô tô và không biết việc Q bán chiếc xe trên. Đến nay, chị không có ý kiến, yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự đối với bị cáo.
Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du thực hành quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố bị cáo Đỗ Quốc Q phạm tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Căn cứ khoản 1, Điều 341; điểm a, khoản 3, Điều 174; điểm s, khoản 1;
khoản 2; Điều 51; Điều 38; điểm a, khoản 1, Điều 55 BLHS.
Xử phạt bị cáo: Từ 06 tháng tù đến 01 năm tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức”.
Và xử phạt bị cáo Đỗ Quốc Q từ 10 năm tù đến 11 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”;
Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành chung hình phạt của 2 tội là từ 10 năm 06 tháng tù đến 12 năm tù; thời hạn tù tính từ ngày 18/11/2022.
Về TNDS: Căn cứ vào điều 48 BLHS; các điều 584; 585, điều 589 Bộ luật dân sự.
Buộc bị cáo phải bồi thường cho anh Chung số tiền là 200.000.000 đồng, anh Hoà số tiền là 216.000.000 đồng.
Về xử lý vật chứng: Căn cứ các điều 47 BLHS, điều 106 BLTTHS.
Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung S21 Untra 5G, đang gắn thẻ sim số 0869.110.999 của bị cáo Q.
Trả lại cho bị cáo Q 01 giấy chứng nhận kiểm định và 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc TNDS của xe ô tô BKS 17C-X.
Tạm giữ số tiền 56.000.000 đồng của anh Nguyễn Văn Hoài để đảm thi hành án.
Tách chiếc ô tô BKS BKS 17C-X để xem xét, xử lý giải quyết bằng vụ án dân sự khác khi có yêu cầu.
Trong phần tranh luận:
Bị cáo nhận tội, không có ý kiến gì và không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát về tội danh, điều luật áp dụng và mức hình phạt;
Bị cáo nhận thấy bị Toà án nhân dân huyện Tiên Du xét xử là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan sai, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho hưởng mức án nhẹ nhất để sớm trở về gia đình và xã hội. Bị cáo đồng ý nhận số tiền 56.000.000 đồng của anh Hoài để sau này trả cho các bị hại.
Bị hại anh Chung: Đề nghị xý lý đối với Hoài vì cùng với Q lừa tiền của các bị hại và buộc anh Hoài phải có trách nhiệm cùng Q trả số tiền 200.000.000 đồng cho anh. Trả 216.000.000 đồng cho anh Hoà vì nếu không anh Hoài được lợi mà không có căn cứ, còn việc anh Hoài và Q vay nhau không liên quan, việc riêng giữa hai người.
Anh Hoà: nhất trí ý kiến anh Chung. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
Đại diện theo uỷ quyền của ngân hàng anh Th trình bày: Anh thấy việc đề nghị xử lý vật chứng đề nghị của đại diện VKS là không hợp lý, anh giữ nguyên quan điểm buộc vợ chồng Q phải trả số tiền còn nợ ngân hàng trong vụ án này , nếu không trả thì đề nghị thu chiếc xe ô tô trên cho ngân hàng để xử lý tài sản bảo đảm.
Chị D: Chị không có ý kiến yêu cầu gì với bị cáo Q. Chị đề nghị thu và trả chiếc xe trên cho ngân hàng.
Anh Hoài: Nhất trí không tranh luận gì.
Đại diện VKS đối đáp:
Đối với ý kiến của bị hại anh Chung và anh Hoà về việc xử lý hình sự với Hoài, đại diện VKS giải thích cho bị hại về việc không đủ căn cứ xử lý đối với Hoài. Đối với việc yêu cầu Hoài phải có trách nhiệm cùng Q trả tiền cho bị hại: Đại diện VKS cho rằng, bị cáo Q là chủ xe, là người giao dịch với bị hại, còn anh Hoài chỉ là người đang quản lý xe ô tô giúp Q, tiền mua bán xe là của Q, bị cáo nhận và phải có trách nhiệm với bị hại, còn việc bị cáo bảo chuyển tiền vào tài khoản của ai không quan trọng, bị cáo vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường cho bị hại, còn việc giữa bị cáo và Hoài là quan hệ vay mượn dân sự, không liên quan đến hành vi lừa đảo của bị cáo đối với các bị hại.
Đối với ý kiến tranh luận của anh Th về việc buộc bị cáo Q phải trả tiền gốc và lãi vợ chồng đã vay ngân hàng trong vụ án này và xử lý chiếc xe ô tô là chưa phù hợp, đề nghị giải buộc bị hại phải trả lại xe cho ngân hàng để xử lý tài sản bảo đảm; đại diện VKS cho rằng: Việc vay tiền mua ô tô và thế chấp tài sản của vợ chồng bị cáo Q, ngân hàng chưa khởi kiện, trường hợp khởi kiện thì phải giải quyết bằng vụ án khác; ngoài ra trong vụ án này C quan điều tra ra Quyết định yêu cầu giao nộp chiếc xe ô tô nhưng bị hại không giao nộp do đó không thu được vật chứng nên chưa thể thu hồi để trả cho ngân hàng để xử lý được nên tách ra, ngân hàng có quyền khởi kiện bằng vụ án tranh chấp dân sự khác. Đối với ý kiến của chị D trùng với ý kiến ngân hàng nên không nhắc lại.
Từ những phân tích nêu trên đại diện VKS vẫn giữ nguyên quan điểm như bản luận tội.
Bị cáo, các bị hại và những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có quan điểm tranh luận nào khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Tiên Du, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của C quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của C quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đại diện theo uỷ quyền của ngân hàng VP Bank ông Cao Duy Th vắng mặt, tuy nhiên ông Th có mặt, ý kiến của người có mặt cũng chính là ý kiến của người vắng mặt (Văn bản uỷ quyền) việc vắng mặt ông Th không ảnh hưởng tới việc xét xử vì vậy Hội đồng xét xử vắng mặt theo thủ tục chung.
[2] Về nội dung vụ án: Lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên toà ngày hôm nay phù hợp với phù hợp với thời gian, địa điểm, lời khai bị hại, người liên quan, người làm chứng và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Đỗ Quốc Q đã mua trả góp 01 chiếc xe ô tô tải màu trắng nhãn hiệu CNHTC, BKS: 17C - X tại ngân hàng TMCP Việt Nam T - Chi nhánh Th Long và ngân hàng đã giữ Giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô bản gốc. Do không có tiền thanh toán nợ, ngân hàng TMCP Việt Nam T - Chi nhánh Th Long không cấp cho Q giấy biên nhận giữ bản chính giấy chứng nhận đăng ký phương tiện giao thông đang thế chấp để lưu thông trên đường nên đầu năm 2019 Q đã làm giả 01 giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô trên qua mạng xã hội Facebook để lưu hành xe vào việc kinh doanh.
Do không có tiền chi tiêu nên ngày 08/5/2022, tại thôn T, xã P, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, Q đã thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt số tiền 200.000.000 đồng của anh Nguyễn Văn Chung và số tiền 216.000.000 đồng của anh Nguyễn Văn H thông qua việc bán chiếc xe ô tô tải, BKS: 17C - X có giấy chứng nhận đăng ký xe giả cho anh Chung và anh H. Số tiền chiếm đoạt được Q đã sử dụng để trả nợ và chi tiêu cá nhân hết.
Tại phiên toà trong phần tranh luận đại diện VKS đã đối đáp đúng, đầy đủ ý kiến của các bị hại và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.
Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy đã có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Đỗ Quốc Q đã phạm tội tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” Theo khoản 1, điều 341 BLHS và điểm a, khoản 3, điều 174 BLHS như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh đã truy tố đối với bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Trong vụ án này bị cáo phạm nhiều tội nên cần tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành chung hình phạt của 2 tội.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức trong lĩnh vực quản lý hành chính của cơ quan Nhà nước về con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ ngoài ra xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản hợp pháp công dân, được pháp luật bảo vệ, gây mất gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây hoang mang lo lắng, bất bình trong quần chúng nhân dân. Do vậy, cần phải đưa bị cáo ra xét xử kịp thời và có một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[3] Xét tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy:
Bị cáo Q là người có nhân thân tốt, tuy nhiên bị cáo phạm nhiều tội, có tội thuộc trường hợp rất nghiêm trọng. Quá trình điều tra và tại phiên toà hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, thừa nhận hành vi phạm tội và tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, mặt khác bị cáo có ông nội là người có công với cách mạng được tặng thưởng kỷ niệm chương nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, khoản 1; khoản 2, điều 51 Bộ luật hình sự.
Do vậy, khi lượng hình Hội đồng xét xử cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước.
Sau khi xem xét, đánh giá tính chất và mức độ hành vi phạm tội cũng như nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và xét đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du là phù hợp, Hội đồng xét xử xét thấy:
Cần thiết phải xử bị cáo một mức án tù, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định, mới có tác dụng giáo dục riêng, phòng ngừa chung, giúp bị cáo trở thành công dân tốt có ích cho xã hội, biết tôn trọng pháp luật.
[5] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo thực hiện hành vi phạm tội nhằm mục đích bán lấy tiền ăn tiêu, lẽ ra ngoài hình phạt chính cần phạt bổ sung một khoản tiền đối với bị cáo, thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật; Tuy nhiên bị cáo không có nghề nghiệp, không có tài sản riêng gì, bị nhiểm HIV vì vậy miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo chiếm đoạt của các bị hại tổng số tiền là 416.000.000 đồng đến nay bị cáo chưa trả được tiền cho các bị hại. Nay anh Chung yêu cầu bị cáo và anh Hoài phải bồi thường số tiền 200.000.000 đồng và anh Hoà yêu cầu bị cáo và anh Hoài phải bồi thường số tiền 216.000.000 đồng. Tuy nhiên HĐXX xác định bị cáo là người trực tiếp giao dịch với anh Chung, chiếm đoạt số tiền của anh Chung, anh Hoà vì vậy bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường số tiền đã chiếm đoạt cho các bị hại. Quan hệ vay tài sản giữa bị cáo và anh Hoài nếu có tranh chấp giải quyết bằng vụ án khác. HĐXX buộc bị cáo phải bồi thường cho anh Chung số tiền 200.000.000 đồng và anh Hoà số tiền 216.000.000 đồng.
[6] Về xử lý vật chứng của vụ án:
Đối với 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung S21 Untra 5G, đang gắn thẻ sim số 0869.110.999, đã qua sử dụng là điện thoại của Q sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.
Đối với 01 giấy chứng nhận kiểm định số 1133067 do Trung tâm đăng kiểm PTGTVT tỉnh Bắc Ninh cấp ngày 14/3/2022 cho xe ô tô BKS: 17C-X và 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe ô tô số T21- 0175931 cấp ngày 14/3/2022 cho xe ô tô BKS: 17C-X do anh Nguyễn Văn Chung giao nộp; chiếc xe ô tô trên hiện đăng ký tên bị cáo Q và bị cáo đã thế chấp tại ngân hàng TMCP Việt Nam T, các giấy tờ trên gắn liền với việc sở hữu chiếc xe nên trả cho bị cáo.
Người liên quan anh Hoài tự nguyện giao nộp số tiền 10.000.000 đồng trong quá trình điều tra và số tiền 46.000.000 đồng để chờ khắc phục giúp Q, anh Hoài đồng ý xử lý số tiền trên để trả cho các bị hại giúp cho bị cáo vì số tiền trên là tiền của Q cho anh vay. HĐXX xét thấy việc anh Hoài nộp số tiền 56.000.000 đồng là hoàn toàn tự nguyện và anh đồng ý xử lý số tiền trên để trả cho bị hại giúp bị cáo nên số tiền trên sẽ được tạm giữ để đảm thi hành án.
Đối với 01 giấy đăng ký ô tô giả là tài liệu, hồ sơ vụ án vì vậy lưu trong hồ sơ vụ án.
[7] Liên quan trong vụ án này:
Đối với chiếc xe ô tô BKS: 17C - X đăng ký tên Đỗ Quốc Q, bị cáo nay đã thế chấp cho ngân hàng TMCP Việt Nam T, hiện nay bị hại anh Chung, anh Hoà đang giữ do các anh là người mua của bị cáo, C quan điều tra đã yêu cầu anh Chung giao nộp tuy nhiên anh không giao nộp. Q vay tiền tại Ngân hàng VP Bank đến nay chưa trả, chiếc xe là tài sản đã thế chấp cho ngân hàng, bị cáo vay đã quá hạn tuy nhiên ngân hàng chưa khởi kiện vụ án tranh chấp về hợp đồng tín dụng. Trong vụ án này đại diện ngân hàng yêu cầu vợ chồng bị cáo phải trả tiền gốc và lãi vay cho ngân hàng, trường hợp không trả được nợ thì thu hồi chiếc xe trên về trả cho ngân hàng. Xét thấy chiếc xe chưa thu hồi được do anh Chung, anh Hoà không giao nộp lý do các anh mua ngay tình nhưng đến nay bị cáo chưa bồi thường cho các anh, giá trị chiếc xe là tài sản lớn của các anh, khi nào bị cáo bồi thường xong anh sẽ trao trả. Vì vậy HĐXX quyết định tách yêu cầu giải quyết chiếc xe ô tô ra giải quyết bằng vụ án khác. Đối với yêu cầu trả số tiền vay gốc và lãi của vợ chồng bị cáo Q cũng giải quyết bằng vụ án khác nếu ngân hàng có yêu cầu.
Đối với anh Ngô Văn Hoài đã được Q giao cho sử dụng chiếc xe ô tô BKS: 17C - X cùng giấy chứng nhận đăng ký xe giả và chứng kiến việc giao dịch mua bán xe ô tô này giữa Q và các bị hại, đồng thời nhận số tiền 216.000.000 đồng Q phạm tội mà có: Quá trình điều tra xác định khi Q giao xe ô tô cùng giấy đăng ký xe cho anh Hoài không nói cho anh Hoài biết chiếc xe đang là tài sản thế chấp tại ngân hàng và không cho anh Hoài biết giấy đăng ký xe là giả. Khi Q giao dịch bán xe cho các bị hại, anh Hoài chỉ chứng kiến việc mua bán này và giao xe cùng giấy tờ xe cho anh Chung và anh H, anh Hoài không biết số tiền bán xe là do Q phạm tội mà có. Số tiền anh nhận từ Hoà là quan hệ giao dịch dân sự giữa anh Hoà và bị cáo Q anh Hoài không biết tiền đó do phạm tội mà có. Do vậy, cơ quan CSĐT không đủ căn cứ để xem xét xử lý anh Hoài đồng phạm với Q về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” nên C quan điều tra chỉ giáo dục nhắc nhở anh Hoài là đúng quy định.
Liên quan trong vụ án có Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới 99-05D và Trung tâm đăng kiểm xe cơ giới giao thông vận tải tỉnh Bắc Ninh 99-02S đã thực hiện việc đăng kiểm chiếc xe ô tô trên. Quá trình điều tra xác định, khi đăng kiểm xe, hai trung tâm đăng kiểm này đã kiểm tra xác định hồ sơ có đầy đủ giấy tờ theo quy định của pháp luật nên đã tiến hành đăng kiểm xe và cấp giấy chứng nhận đăng kiểm cho chiếc xe này. Tuy nhiên, quá trình kiểm tra hồ sơ, Trung tâm không phát hiện giấy đăng ký xe là giả nên cơ quan CSĐT giáo dục, nhắc nhở là phù hợp.
Đối với người thanh niên đã làm giả giấy chứng nhận đăng ký xe ô tô cho Đỗ Quốc Q: Do Q không biết tên tuổi, địa chỉ của người này, sau khi mua được giấy đăng ký giả Q đã xoá tin nhắn giao dịch với người này nên C quan CSĐT đang tiếp tục điều tra, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau là đúng quy định.
[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự và dân sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Đỗ Quốc Q phạm tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” và “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” Căn cứ khoản 1, Điều 341; điểm a, khoản 3, điều 174, điểm s, khoản 1, khoản 2, Điều 51; Điều 38 BLHS.
Xử phạt: Đỗ Quốc Q 10 tháng tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”.
Xử phạt: Đỗ Quốc Q 11 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; Căn cứ Điều 55 BLHS;
Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành chung hình phạt của 2 tội là 11 năm 10 tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày 18/11/2022.
Căn cứ Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự;
Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.
*Về TNDS: Căn cứ vào điều 48 BLHS; các điều 584; 585, điều 589 Bộ luật dân sự.
Buộc bị cáo Q có trách nhiệm bồi thường cho anh Nguyễn Văn Chung số tiền là 200.000.000 đồng, cho anh Nguyễn Văn Hoà số tiền là 216.000.000 đồng.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn đề nghị thi hành án, người phải người thi hành án không tự nguyện thi hành thì phải chịu lãi suất tương ứng với số tiền và thời gian chậm trả theo quy định tại điều 468 Bộ luật dân sự.
* Về xử lý vật chứng: Căn cứ điều 47 BLHS; điều 106 BLTTHS.
Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung S21 Untra 5G, đang gắn thẻ sim số 0869.110.999 của bị cáo Q.
Trả lại cho bị cáo Q 01 giấy chứng nhận kiểm định số 1133067 do Trung tâm đăng kiểm PTGTVT tỉnh Bắc Ninh cấp ngày 14/3/2022 cho xe ô tô BKS:
17C-X và 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe ô tô số T21- 0175931 cấp ngày 14/3/2022 cho xe ô tô BKS: 17C-X.
Tạm giữ số tiền 10.000.000 đồng và số tiền 46.000.000 đồng của anh Nguyễn Văn Hoài Hoài tự nguyện nộp thay cho bị cáo Q để đảm thi hành án, theo 01 giấy nộp tiền vào tài khoản tại ngân hàng Agribank huyện Tiên Du ngày 14/7/2023 và Biên lai thu tiền số AA/2021/0001858 ngày 14/8/2023 của Chi cục THADS huyện Tiên Du.
(Theo đúng Biên bản bàn giao vật chứng giữa C quan điều tra Công an huyện Tiên Du và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh ngày 14/7/2023).
Căn cứ các Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
*Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo phải chịu 18.000.000 đồng án phí DSST.
* Về quyền kháng cáo: Bị cáo, các bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự./.
Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 150/2023/HS-ST
Số hiệu: | 150/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tiên Du - Bắc Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/08/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về