Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 145/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG THÀNH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 145/2024/HS-ST NGÀY 12/06/2024 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Tòa án nhân dân huyện Long Thành xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 114/2024/HSST, ngày 02 tháng 5 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 143/2024/QĐXXST - HS ngày 31 tháng 5 năm 2024, đối với bị cáo:

Đỗ Văn T, tên gọi khác: Không, sinh năm 1993, tại Hậu Giang. Hộ khẩu thường trú: Ấp G, xã V, huyện V, tỉnh Hậu Giang; Nơi cư trú: Không có nơi cư trú ổn định; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Văn C và bà Nguyễn Thị C1; bị cáo chưa có vợ, con.

Tiền án: Ngày 25/3/2011, bị Tòa án nhân dân thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 17 tháng 10 ngày về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999. Bị cáo T chưa nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Tiền sự: Không .

Nhân thân: Ngày 19/3/2024, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện N ra quyết định khởi tố bị can về tội “Tội cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 05/10/2023 đến nay tại Nhà tạm giữ Công an huyện L.

* Bị hại: Công ty Cổ phần G2.

Địa chỉ: Tòa nhà V, số H P, phường M, quận N, Thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Trần Quốc H, sinh năm 2001, chức vụ: Nhân viên pháp chế .

Địa chỉ thường trú: A, đường I, phường L, Thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh.

Địa chỉ liên hệ: 20 C, phường A, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. (Giấy ủy quyền ngày 07/6/2024) ( Bị cáo, đại diện theo ủy quyền của bị hại có mặt tại phiên tòa)


NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Do nợ nần và không có nghề nghiệp nên Đỗ Văn T nảy sinh ý định lừa đảo chiếm đoạt tài sản thông qua hình thức mua sắm trực tuyến rồi chiếm đoạt đem bán lấy tiền tiêu xài cá nhân và trả nợ. Thực hiện ý định, T sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Oppo F11 màu đen vào trang mua bán “Chợ tốt" mua các đồng hồ (không có dây đeo) nhãn hiệu Apple Watch Ultra màu titanium (không có số seri) có giá từ 1.500.000 đồng đến 2.000.000 đồng. Ngày 29/9/2023, T vào trang “Chợ tốt” sử dụng số điện thoại 0933.190.6xx lấy tên giả “ A Q” đặt mua 01 đồng hồ (không có dây đeo) nhãn hiệu Apple Watch Ultra màu titanium số seri DGC79L749W với giá 13.537.000 đồng (đã bao gồm phí vận chuyển) của cửa hàng “Tuấn T1” có địa chỉ khu H, B, huyện M, Thành phố Hà Nội do anh Phan Huy T2 làm chủ. Tạo lấy địa chỉ nhận hàng là ấp X, xã L, huyện L, tỉnh Đồng Nai. Sau đó, T tiếp tục sử dụng số điện thoại 0906.244.2xx lấy tên giả “Trần Anh Q1” đặt mua 01 đồng hồ (không có dây đeo) nhãn hiệu Apple Watch Ultra màu titanium số seri HR4JCR66LD trị giá 13.856.000 đồng (đã bao gồm phí vận chuyển) của cửa hàng “Xuân Chính" có địa chỉ 11, ngõ A,T, phường T, quận T, thành phố Hà Nội do anh Trần Xuân C2 làm chủ. Tạo lấy địa chỉ nhận hàng là ấp H, xã A,huyện L, tỉnh Đồng Nai.

Đến 10 giờ ngày 05/10/2023, tại khu vực phía trước 01 quán ăn (không rõ tên) thuộc ấp X, xã L, huyên L, tỉnh Đồng Nai, anh Phạm Xuân T3 - nhân viên giao hàng của Công ty G3 - Chi nhánh K giao đơn hàng DGC79L749W có trị giá 13.537.000 đồng cho T. Tạo lấy lý do cần kiểm tra chức năng nên T cầm đồng hồ và cục sạc đi vào phía trong quán ăn nhờ cắm điện, còn anh T3 thì đứng chờ và quan sát Tạo từ phía sau. Khi vào trong quán ăn, T giả vờ hỏi chỗ cần cắm cục sạc, đến chỗ khuất tầm nhìn của anh T3 rồi nhanh chóng đánh tráo với đồng hồ có màu sắc và kiểu dáng tương tự do T đã giấu sẵn trong người. Sau đó, T đi ra gặp anh T3 nói dối do cục sạc không cùng nhãn hiệu nên không kiểm tra được và đưa lại mặt đồng hồ đã đánh tráo và cục sạc cho anh T3. Tiếp đó, T gọi điện cho cửa hàng “Tuấn T1” thông báo cần đổi lại cục sạc thì T mới nhận đơn hàng thì cửa hàng “Tuấn T1” đồng ý. Tạo đưa điện thoại cho người của cửa hàng “Tuấn T1” nói chuyện với anh T3 thì anh T3 được yêu cầu mang đơn hàng về kho, khi nào chủ cửa hàng gửi lại dây sạc thì sẽ giao lại cho T. Sau đó, anh T3 mang đơn hàng về kho, kiểm tra lại thì phát hiện mặt đồng hồ không có số seri DGC79L749W nên anh T3 đã đến Công an huyện L để trình báo. Riêng T cất giấu chiếc đồng hồ đã chiếm đoạt được cất giấu trong cốp xe mô tô biển số 54T3-67xx, nhãn hiệu Yamaha Taurus, màu xanh đen rồi điều khiển xe về phòng trọ của T tại xã L, huyện N, tỉnh Đồng Nai.

Đến 14 giờ 25 phút cùng ngày, tại khu vực trước dãy trọ thuộc ấp H, xã A, huyện L, anh T3 gọi số điện thoại 09062442xx của Tạo để giao đơn hàng HR4JCR66LD trị giá 13.856.000 đồng. Khi gặp mặt, anh T3 phát hiện T là người đã lừa đảo đối với đơn hàng DGC79L749W có trị giá 13.537.000 đồng vào buổi sáng cùng ngày. Tuy nhiên, anh T3 giả vờ không quen biết và đưa đơn hàng cho T kiểm tra, đồng thời chú ý quan sát Tạo. Quá trình kiểm tra, T thấy anh T3 cảnh giác và quan sát mình nên T lấy lý do mặt đồng hồ bị trầy xước nên không nhận rồi T bỏ đi về hướng bên trong dãy trọ. Cùng lúc này, anh T3 tri hô cùng người dân bắt giữ, giao T cho Công an huyện L. Qua kiểm tra trong cốp xe mô tô biển số 54T3-67xx của Tạo, phát hiện 01 đồng hồ nhãn hiệu Apple Watch Ultra màu Titanium (màu xám) có số seri DGC79L749W do T chiếm đoạt trong buổi sáng cùng ngày.

Quá trình điều tra, Đỗ Văn T khai nhận với thủ đoạn tương tự nêu trên thì T đã thực hiện 05 vụ lừa đảo, trong đó tại tỉnh Long An 02 vụ và tỉnh Tiền Giang 02 vụ và thành phố Cần Thơ 01 vụ. Sau khi chiếm đoạt được tài sản, T vào trang web “Chợ tốt” rồi vào mục “Mua apple watch” lấy số điện thoại của anh Trần Chí P, ngụ tại 2 L, phường P, quận T, thành phố Hồ Chí Minh kết bạn zalo để thoả thuận giá cả bán đồng hồ cho anh P. Từ ngày 30/8/2023 đến ngày 30/9/2023, T đã 04 lần bán cho anh P 05 chiếc đồng hồ nhãn hiêu Apple Watch Ultra, màu xám (04 đồng hồ phiên bản Mỹ và 01 đồng hồ phiên bản Việt Nam đều không có quai) với tổng số tiền 55.200.000 đồng. Anh P trả tiền cho T bằng hình thức chuyển tiền vào số tài khoàn 00004003816 của ngân hàng T5 mang tên Đỗ Văn T. Số tiền trên T sử dụng vào trả nợ và tiêu xài hết.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện L đã uỷ thác điều tra đến các tỉnh thành phố nêu trên để xác minh và thông báo truy tìm bị hại nhưng đến nay chưa có kết quả trả lời.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 358/KL-HĐĐGTS ngày 11/10/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện L kết luận:

+ 01 mặt đồng hồ Apple Watch bản Ultra 49 mm, T4, màu xám trong khe đồng hồ có ký hiệu HR4JCR66LD China Apple Inc A2859EN13319 đã qua sử dụng trị giá 12.000.000 đồng.

+ 01 mặt đồng hồ Apple Watch bản Ultra 49mm, T4, màu xám trong khe đồng hồ có ký hiệu Model A2622 DGC79L749W đã qua sử dụng trị giá 12.000.000 đồng. Tổng giá trị tài sản bị thiệt hại là 24.000.000 đồng.

Tại cáo trạng số 124/CT –VKSLT, ngày 02 tháng 5 năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành đã truy tố bị cáo Đỗ Văn T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) . Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Đỗ Văn T như bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 174, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Xử phạt bị cáo Đỗ Văn T mức án từ 20 tháng đến 24 tháng tù. Về xử lý vật chứng:

- 02 đồng hồ (không có dây đeo) Apple Watch bản Ultra 49 mm, màu xám không có ký hiệu (đồng hồ giả) tạm giữ của T sử dụng vào mục đích phạm tội, không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu huỷ .

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu đen gắn 02 sim số 09062442xx và 09331906xx là phương tiện T sử dụng vào việc phạm tội cần tịch thu sung quỹ Nhà nước - 01 xe mô tô biển số 54T3-67xx, nhãn hiệu Yamaha Taurus, màu xanh đen tạm giữ của Đỗ Văn T. Quá trình xác minh xác định xe mô tô trên do anh Đặng Trường G, sinh năm 1979 ngụ tại B, phường D N, quận A, thành phố Hồ Chí Minh đứng tên chủ sở hữu. Anh G đã bán xe mô tô trên vào tháng 5/2021 cho 01 người không rõ nhân thân lai lịch với giá 4.200.000đồng. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện L tiếp tục tạm giữ để xác minh, làm rõ xử lý sau .

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là Công ty Cổ phần giao hàng tiết kiệm nhanh yêu cầu bị cáo T bồi thường cho Công ty trị giá đơn hàng của 02 đồng hồ nêu trên tổng số tiền là 27.000.000 đồng. Tại phiên tòa bị cáo T đồng ý bồi thường cho bị hại số tiền 27.000.000 đồng nên ghi nhận. Đối với 02 đồng hồ (không có dây đeo) nhãn hiệu Apple Watch bản Ultra 49mm,T4, màu xám trong khe đồng hổ có ký hiệu HR4JCR66LD China Apple lncA2859EN13319 và ký hiệu Model A2622 DGC79L749W, EN13319 là tài sản bị cáo chiếm đoạt nên giao trả cho bị hại theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện L, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện L, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Căn cứ vào lời khai của bị cáo, lời khai của bị hại cùng các tài liệu, chứng cứ được thu thập có tại hồ sơ xác định: Vào lúc 10 giờ 00 phút ngày 05/10/2023, tại khu vực phía trước 01 quán ăn (không rõ tên) thuộc ấp X, xã L, huyện L, tỉnh Đồng Nai, bị cáo T đã có hành vi gian dối đánh tráo hàng khi anh Phạm Xuân T3 - nhân viên giao hàng của Công ty Giao hàng tiết kiệm nhanh giao đơn hàng DGC79L749W có trị giá 13.537.000 đồng và đến đến 14 giờ 25 phút cùng ngày, tại khu vực trước dãy trọ thuộc ấp H, xã A, huyện L, bị cáo T có mục đích tiếp tục đánh tráo đơn hàng HR4JCR66LD trị giá 13.856.000 đồng nhưng do bị phát hiện nên bị cáo lấy lý do mặt đồng hồ bị trầy xước lên không nhận hàng đã đặt trước đó rồi bỏ đi thì bị bắt giữ . Hành vi phạm tội của bị cáo Đỗ Văn T đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự như Cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Thành là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Xét về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và hình phạt: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an xã hội ở địa phương. Bị cáo là người có đủ khả năng nhận thức về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản là vi phạm pháp luật nhưng xuất phát từ động cơ tư lợi, muốn có tiền để trả nợ, tiêu xài cá nhân nên bị cáo thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, cần có mức án thật nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Tình tiết tăng nặng: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp phạm tội hai lần trở lên là tình tiết tăng nặng được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Đối với Bản án số 07/2011/HSST ngày 25/3/2011 của Tòa án nhân dân thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang xử phạt bị cáo T 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 17 tháng 10 ngày về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo T chưa nộp án phí 200.000 đồng. Tuy nhiên, thời điểm này bị cáo phạm tội là người dưới 18 tuổi nên căn cứ điểm b khoản 1 Điều 107 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) được coi là không có án tích.

- Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, bị cáo tác động đến gia đình khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại cho bị hại, bị cáo có bà ngoại là người có công với cách mạng là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[5] Về hình phạt: Căn cứ vào tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, xét thấy cần phải cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người tốt cho xã hội và nhằm mục đích phòng ngừa tội phạm nói chung.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Công ty Cổ phần giao hàng tiết kiệm yêu cầu bị cáo phải bồi thường thiệt hại số tiền 27.000.000 đồng. Bị cáo tự nguyện đồng ý nên ghi nhận thỏa thuận này, vì vậy, giao trả cho bị hại Công ty Cổ phần giao hàng tiết kiệm số tiền 27.000.000 đồng (hai mươi bảy triệu đồng) theo biên lai thu tiền số 0006524 ngày 05/6/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Thành.

[7] Về xử lý vật chứng:

- Tại phiên tòa bị hại Công ty Cổ phần giao hàng tiết kiệm yêu cầu được nhận lại 02 mặt đồng hồ (không có dây đeo) nhãn hiệu Apple Watch bản Ultra 49 mm,T4, màu xám trong khe đồng hổ có ký hiệu HR4JCR66LD China Apple lncA2859EN13319 và ký hiệu Model A2622 DGC79L749W, EN13319 là tài sản bị cáo chiếm đoạt nên giao trả cho bị hại.

- Tịch thu tiêu hủy 02 đồng hồ (không có dây đeo) Apple Watch bản Ultra 49 mm, màu xám không có ký hiệu (đồng hồ giả), bị cáo T sử dụng vào mục đích phạm tội.

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu đen gắn 02 sim số 09062442xx và 09331906xx là phương tiện T sử dụng vào việc phạm tội .

- Đối với 01 xe mô tô biển số 54T3-67xx, nhãn hiệu Yamaha Taurus, màu xanh đen tạm giữ của Đỗ Văn T. Quá trình xác minh xác định xe mô tô trên do anh ĐặngTrường G1, sinh năm 1979 ngụ tại B, phường D N, quận A, thành phố Hồ Chí Minh đứng tên chủ sở hữu. Anh G1 đã bán xe mô tô trên vào tháng 5/2021 cho 01 người không rõ nhân thân lai lịch với giá 4.200.000đồng. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện L tiếp tục tạm giữ để xác minh, làm rõ xử lý sau.

[8] Về án phí: Bị cáo Đỗ Văn T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

a Căn cứ vào khoản 1 Điều 174, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

1. Tuyên bố bị cáo Đỗ Văn T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Xử phạt bị cáo Đỗ Văn T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo Đỗ Văn T bị tạm giữ ngày 05/10/2023.

2. Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận sự tự nguyện bị cáo Đỗ Văn T bồi thường cho bị hại Công ty giao hàng tiết kiệm số tiền 27.000.000 đồng. Vì vậy, giao trả cho bị hại Công ty Cổ phần giao hàng tiết kiệm số tiền 27.000.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0006524 ngày 05/6/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Thành.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

- Giao trả cho bị hại Công ty giao hàng tiết kiệm 02 mặt đồng hồ (không có dây đeo) nhãn hiệu Apple Watch bản Ultra 49 mm,T4, màu xám trong khe đồng hồ có ký hiệu HR4JCR66LD China Apple lncA2859EN13319 và ký hiệu Model A2622 DGC79L749W, EN13319.

- Tịch thu tiêu hủy 02 đồng hồ (không có dây đeo) Apple Watch bản Ultra 49 mm, màu xám, không có ký hiệu (đồng hồ giả) bị cáo T sử dụng vào mục đích phạm tội.

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu đen, gắn 02 sim số 09062442xx và 09331906xx là phương tiện T sử dụng vào việc phạm tội .

(Hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Long Thành theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 04/5/2024).

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Đỗ Văn T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo Đỗ Văn T, bị hại Công ty Cổ phần giao hàng tiết kiệm được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

46
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 145/2024/HS-ST

Số hiệu:145/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Thành - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:12/06/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về