Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 14/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 14/2024/HS-ST NGÀY 18/01/2024 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 182/2023/TLST-HS ngày 20 tháng 12 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2024/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 01 năm 2024 đối với bị cáo:

Đỗ Văn V, sinh năm 1983 tại Hải Phòng; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn 6 (thôn Giá), xã G, huyện T, thành phố Hải Phòng; nơi cư trú: Số 36/66 Nguyễn Hồng Quân, phường T, quận H, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Văn B và bà Đàm Thị H; có vợ là Trương Thị D (đã ly hôn) và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 28/4/2023; bị cáo đã bị Uỷ ban kiểm tra Huyện uỷ TN có Quyết định kỷ luật Đảng viên bằng hình thức khai trừ vào ngày 13/6/2023; có mặt.

- Bị hại: Chị Phạm Thị K, sinh năm 1972; địa chỉ: Thôn 2 (Đường Đá), xã H, huyện TN, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (có đơn đề nghị Toà án xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đỗ Văn V làm công chức Tư pháp - Hộ tịch tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện T từ tháng 9 năm 2018. Trong thời gian công tác, Đỗ Văn V được giao nhiệm vụ soạn thảo, kiểm tra chứng thực các hợp đồng giao dịch đất đai, phối hợp với công chức địa chính xã để hoàn thiện các thủ tục hồ sơ giấy tờ liên quan đến tách thửa, cho, tặng, giao dịch chuyển nhượng đất cho công dân xã H có nhu cầu.

Khoảng tháng 07 - 08 năm 2021, chị Phạm Thị K đến trụ sở Ủy ban nhân dân xã H gặp V nhờ làm thủ tục chia tách quyền sử dụng đất của thửa đất số 887A, tờ bản đồ số 01, diện tích 248m2 mang tên bà Doãn Thị Nghĩa (mẹ đẻ chị K) ở thôn Đường Đá, xã H, huyện T thành 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. V thỏa thuận với chị K chi phí làm thủ tục tách bìa đất là 20.000.000đồng (bao gồm chi phí nộp thuế, chi phí đo đạc địa chính, công sức đi lại làm thủ tục của V…). Chị K đồng ý và đã chuyển cho V số tiền trên cùng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau đó, do không thể làm được thủ tục nên V đã gọi chị K đến Ủy ban xã trả lại tiền và giấy tờ đất. Đến ngày 14/11/2021, V liên lạc lại với chị K, nói việc tách bìa có thể thực hiện được và yêu cầu chuyển số tiền 20.000.000đồng cùng các giấy tờ để V làm, chị K đã chuyển 20.000.000đồng cùng các giấy có liên quan cho V. Đến ngày 01/12/2022, do cần tiền sử dụng vào mục đích cá nhân nên V đã nảy sinh ý định chiếm đoạt tiền của chị K. Thực hiện ý định trên, V đến nhà gặp chị K nói dối là thửa đất số 887A của gia đình chị K nằm trong diện bị nhà nước thu hồi và được xem xét cấp 02 lô đất tái định cư, do đó phải nộp tiền thuế đất của hai lô đất tái định cư là 500.000.000đồng (thực tế thửa đất trên không nằm trong diện bị nhà nước thu hồi và không nằm trong quy hoạch của bất cứ dự án nào được triển khai trên địa bàn xã H). Do chị K lúc này chỉ có 300.000.000đồng nên chị K đã thỏa thuận với V chỉ nộp 300.000.000đồng để làm thủ tục cấp đất tái định cư, nếu nộp 500.000.000đồng chị K không làm nữa, V đồng ý. Sau đó chị K đã chuyển cho V số tiền trên đồng thời V đã viết giấy nhận tiền với nội dung “giúp gia đình chị K thực hiện các thủ tục liên quan đến đất đai”.

Để gia đình chị K tin tưởng, ngày 05/12/2022 V đã liên hệ thuê anh Trịnh Anh T1, sinh năm 1981 (Giám đốc của Công ty Trách nhiệm hữu hạn tài nguyên và môi trường 286 – chi nhánh huyện T) đến nhà chị K đo đất và giới thiệu với chị K, anh T1 là cán bộ Ủy ban nhân dân huyện T đến kê khai hiện trạng làm phương án bồi thường, thu hồi đất nhưng thực tế anh T1 đến vẽ bản đồ trích đo làm thủ tục tách bìa đất cho chị K, anh T1 đã đo và hoàn thiện bản vẽ chuyển lại V. V dự định sẽ sử dụng bản vẽ trên để tách thửa cho thửa đất nhà chị K nhưng chưa thực hiện, bản đo vẽ này không phục vụ cho việc làm thủ tục thu hồi đất, đền bù giải phóng mặt bằng của nhà chị K. Sau khi chiếm đoạt được tiền, V đã trả nợ các khoản vay trước đó và giữ lại 10.000.000đồng tiêu dùng cá nhân. Sau đó, chị K biết V đưa thông tin không đúng sự thật để chiếm đoạt tiền của mình, chị K đã yêu cầu V trả lại tiền nhưng V chưa trả được ngay nên ngày 06/02/2023 chị K đã làm đơn trình báo Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện TN. Đến ngày 11/02/2023, V đã chủ động đến gia đình chị K xin lỗi và trả lại số tiền đã chiếm đoạt là 300.000.000đồng và trả tiếp số tiền 20.000.000đồng là tiền V nhận để làm thủ thục tách quyền sử dụng đất trước đó của gia đình chị K.

Bị hại chị Phạm Thị K có lời khai phù hợp với nội dung nêu trên. Hiện V đã trả lại chị K số tiền 320.000.000đồng. Chị K có đơn xin rút đơn tố cáo và xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với V.

Tài liệu xác minh tại chính quyền địa phương thể hiện thửa đất số 887A, tờ bản đồ số 01 thôn Đường Đá, xã H, diện tích 248m2 mang tên chủ sử dụng đất là bà Doãn Thị Nghĩa không nằm trong quy hoạch của bất cứ dự án nào đang triển khai trên địa bàn xã H; cơ quan Nhà nước cũng chưa có thông báo hoặc quyết định nào về việc thu hồi đất của bà Nghĩa. Ngoài thửa đất trên, gia đình bà Nghĩa không có thửa đất nào khác trên địa bàn xã H có liên quan đến việc thu hồi đấtr để thực hiện dự án đang triển khai tại địa phương (dự án khu tái định cư đường 359; dự án Hoàng Huy Green River). Về đất nông nghiệp, hộ bà Doãn Thị Nghĩa có 1 thửa đất số 2546 tờ bản đồ số 02, diện tích 1488m2 trong diện thu hồi đất thực hiện dự án Hoàng Huy Green River. Gia đình bà Nghĩa đã nhận tiền bồi thường hỗ trợ, bàn giao mặt bằng cho dự án và không được xem xét cấp đất tái định cư vì là đất nông nghiệp.

Bản Cáo trạng số 11/CT-VKS ngày 20 tháng 12 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, thành phố Hải Phòng truy tố bị cáo Đỗ Văn V về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 174 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 174; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Đỗ Văn V từ 08 năm đến 09 năm tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 28/4/2023.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Về dân sự: Đã giải quyết xong tại giai đoạn điều tra, bị hại không có yêu cầu gì khác nên Kiểm sát viên không đề cập giải quyết.

- Bị cáo Đỗ Văn V thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T tại phiên tòa. Trong lời nói sau cùng, bị cáo nhận thấy hành vi bị cáo đã thực hiện là sai trái, vi phạm pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử khoan hồng khi quyết định hình phạt đối với bị cáo cho bị cáo được hưởng mức hình phạt thấp nhất để bị cáo có cơ hội cải tạo bản thân và sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thu thập và thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, lời khai của bị hại và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, công bố công khai tại phiên tòa thể hiện: Ngày 01/12/2022, tại gia đình chị Phạm Thị K ở thôn 2, xã H, huyện T, thành phố Hải Phòng bị cáo Đỗ Văn V đã có hành vi gian dối đưa thông tin không đúng sự thật về việc thửa đất của gia đình chị Phạm Thị K thuộc diện bị Nhà nước thu hồi đất được nhận tái định cư để chiếm đoạt số tiền 300.000.000 đồng của chị Phạm Thị K. Bị cáo có đủ năng lực hành vi hình sự, lỗi của bị cáo là lỗi cố ý. Vì vậy, hành vi của bị cáo đã phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” với tình tiết định khung hình phạt “chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng quy định tại điểm a khoản 3 Điều 174 của Bộ luật Hình sự như truy tố và đề nghị kết tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện T đối với bị cáo là có căn cứ và đúng pháp luật.

[3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, phạm tội thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân nên cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối hận; bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả. Bị hại chị Phạm Thị K đã có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo; bố đẻ bị cáo là ông Đỗ Văn Bột được Chủ tịch nước tặng Huân chương chiến sỹ giải phóng. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt: Căn cứ vào quy định của Bộ luật Hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân bị cáo Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo Đỗ Văn V phạm tội rất nghiêm trọng với lỗi cố ý nên cần thiết phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn theo quy định tại Điều 38 của Bộ luật Hình sự và trên mức khởi điểm của khung hình phạt đối với bị cáo mới đáp ứng được yêu cầu giáo dục riêng bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội. Theo quy định tại khoản 5 Điều 174 của Bộ luật Hình sự bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền nhưng xét bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về dân sự: Đã giải quyết xong tại giai đoạn điều tra. Mặt khác, bị hại không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Trong vụ án này, Đỗ Văn V còn có hành vi nhận số tiền 20.000.000 đồng của chị Phạm Thị K; 93.000.000 đồng của chị Nguyễn Thị Hà; 80.000.000 đồng của anh Đồng Xuân Nám; 60.000.000 đồng của anh Nguyễn Văn Sơn đều với mục đích làm thủ tục chia tách quyền sử dụng đất. Quá trình điều tra xác định những người này đều chủ động nhờ V giúp đỡ, V đã triển khai làm các thủ tục để tách bìa theo thỏa thuận nhưng do nhiều nguyên nhân khách quan dẫn đến chưa thực hiện được, V đã hoàn trả lại tiền và giấy tờ kèm theo, các anh chị K, Hà, Sơn, Nám đều có đơn xin rút đơn trình báo. Tài liệu điều tra chưa đủ căn cứ để kết luận xử lý đối với hành vi này của V nên Cơ quan điều tra tách ra điều tra làm rõ xử lý sau là phù hợp với quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo Đỗ Văn V phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

- Căn cứ vào điểm a khoản 3 Điều 174; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Đỗ Văn V 08 (Tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 28/4/2023.

- Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Đỗ Văn V phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo Đỗ Văn V có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại chị Phạm Thị K vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án do Tòa án tống đạt hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

52
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 14/2024/HS-ST

Số hiệu:14/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về