Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 14/2022/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUY HÒA, TỈNH PHÚ YÊN

BẢN ÁN 14/2022/HSST NGÀY 21/01/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tuy Hòa mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 03/2022/HSST ngày 10 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2022/QĐXXST- HS ngày 10 tháng 01 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Võ Đặng Anh Q; Tên gọi khác: K M; Giới tính: nam; Sinh ngày 27/7/2003, nơi sinh: tỉnh Phú Yên; ĐKHKTT: thôn D, xã H, huyện P, tỉnh Phú Yên; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 8/12; Cha: Võ Thái B, sinh năm 1983; Mẹ: Đặng Thị Ngọc T, sinh năm: 1982; Có 01 em; Tiền án: không. Tiền sự: Ngày 28/6/2020, bị Công an huyện Phú Hòa xử phạt 1.750.000 đồng về hành vi Hủy hoại tài sản, nộp phạt xong ngày 03/8/2020; ngày 20/8/2020, bị Công an huyện Phú Hòa xử phạt 375.000 đồng về hành vi Đánh nhau, đóng phạt xong ngày 24/8/2020. Nhân thân: Ngày 04/3/2019, bị Công an huyện P xử phạt cảnh cáo về hành vi Trộm cắp tài sản; ngày 22/6/2021, bị Cơ quan CSĐT Công an TP Tuy Hòa khởi tố, điều tra về tội Cố ý gây thương tích; ngày 26/9/2021, có hành vi trộm cắp tài sản tại huyện P, Công an huyện P đang thụ lý, giải quyết; ngày 27/10/2021 và 30/10/2021 bị Cơ quan CSĐT Công an huyện P khởi tố, điều tra về các tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và tội “Cố ý gây thương tích”.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Tuy Hòa từ ngày 27/09/2021. Có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Trương Quốc C – sinh năm 2003; Địa chỉ: khu phố T, phường X, thị xã S, tỉnh Phú Yên; Vắng mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Nguyễn Văn Tr – sinh năm 1999; Địa chỉ: khu phố A, phường X, thị xã S, tỉnh Phú Yên. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Do không có tiền tiêu xài và sử dụng ma túy nên Võ Đặng Anh Q nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản của anh Trương Quốc C ở khu phố T, phường X, thị xã S. Vào tối ngày 23/5/2021, Q nhắn tin cho C qua ứng dụng “Facebook Messenger” nói dối nhờ C lấy xe mô tô chở vào thành phố Tuy Hòa để lấy tiền người quen, mục đích để tiếp cận nhằm chiếm đoạt xe mô tô của C, C tưởng thật nên đồng ý. Đến sáng ngày 24/5/2021, C mượn xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Exciter, màu đen xanh, biển số 78D1 –NN trị giá 40.885.000 đồng của anh Nguyễn Văn Tr ở khu phố A, phường X, TX S đến đón Q, Q điều khiển xe chở C đi từ TX S đến ngã 3 CX, thuộc xã B, TP Tuy Hòa. Tại đây, Q dừng xe và nói dối bảo C đứng chờ để Q mượn xe đến nhà người quen lấy tiền rồi quay lại đón, C tưởng thật nên đã giao xe cho Q và Q điều khiển xe đi đến thôn N, xã H, huyện P cất giấu chờ tiêu thụ. Sau đó, Q bắt xe taxi đến nhà nghỉ D, TP T thuê phòng và sử dụng ma túy với bạn gái tên T (không rõ lai lịch). Anh C không thấy Q đem xe trả, biết mình bị lừa nên kể sự việc trên cho anh Tr, cả hai không liên lạc được với Q nên tố giác đến Công an TP Tuy Hòa. Đến ngày 02/6/2021, anh Nguyễn Văn Tr liên lạc với Q để xin chuộc lại xe thì Q yêu cầu anh Tr đưa số tiền 10.500.000 đồng, Tr đồng ý và báo cáo sự việc cho Công an TP Tuy Hòa. Đến sáng ngày 04/6/2021 Q đem chiếc xe đã chiếm đoạt được đến địa điểm để nhận tiền như đã hẹn thì bị công an phát hiện lập biên bản, thu giữ chiếc xe mô tô nói trên.

Về vật chứng và tài sản tạm giữ: Tạm giữ và đã trả lại cho chủ sở hữu: Xe mô tô nhãn hiệu Yamaha loại Exciter, biển số 78D1 – NN màu đen xanh; giấy đăng kí xe mô tô biển số 78D1 – NN; số tiền 10.000.000 đồng; điện thoại di động nhãn hiệu Iphone6 Plus. Tạm giữ chờ xử lý: 01 (Một) điện thoại Sam Sung Galaxy Grand Prime G531, loại 8GB, màu vàng đồng, số IMEL: 354621077761372, sim số 0nn;

01 (một) cái kéo dài 17,5cm, phần cán bằng nhựa, màu đen, kích thước (7,3 x 6,5) cm.

Về trách nhiệm dân sự: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Văn Tr đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì thêm.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuy Hòa thực hành quyền công tố tại phiên tòa, sau khi phân tích tính chất và mức độ hành vi phạm tội vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo tại cáo trạng số 100/CT-VKS ngày 17/11/2021 và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51, điều 91, điều 101 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu sung quỹ nhà nước đối với 01 (Một) điện thoại Sam Sung Galaxy Grand Prime G531, màu vàng đồng, tịch thu tiêu hủy đối 01 (một) cái kéo dài 17,5cm, phần cán bằng nhựa, màu đen, kích thước (7,3 x 6,5) cm.

Bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Tuy Hòa, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuy Hòa, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với các chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, làm rõ tại phiên tòa. Vì vậy đủ cơ sở để kết luận: Vào ngày 24/5/2021, tại xã B, thành phố T, Võ Đặng Anh Q đã dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt xe mô tô do anh Trương Quốc C quản lý, trị giá 40.885.000 đồng. Do đó, hành vi bị cáo Võ Đặng Anh Q đã phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự như cáo trạng đã truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuy Hòa và luận tội của kiểm sát viên tại phiên tòa là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội vì không những xâm phạm đến tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ mà còn gây mất trật tự, trị an tại địa phương, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân. Bị cáo có 02 tiền sự và nhân thân xấu nhưng không có ý thức tu dưỡng, rèn luyện mà vẫn tiếp tục phạm tội cần phải xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và cách ly bị cáo ra khỏi cộng đồng xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[3.1] Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 và cần áp dụng Điều 91, Điều 101 của Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Văn Tr đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu sung quỹ nhà nước đối với 01 (Một) điện thoại Sam Sung Galaxy Grand Prime G531, loại 8GB, màu vàng đồng, số IMEL: 354621077761372, sim số 0nn là phương tiện phạm tội, tịch thu tiêu hủy đối 01 (một) cái kéo dài 17,5cm, phần cán bằng nhựa, màu đen, kích thước (7,3 x 6,5) cm không còn giá trị sử dụng.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Võ Đặng Anh Q phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng: khoản 1 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 91, Điều 101 của Bộ luật Hình sự

Xử phạt: Bị cáo Võ Đặng Anh Q 01 (Một) năm 6 (Sáu) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày 27/09/2021.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu sung quỹ nhà nước đối với 01 (Một) điện thoại Sam Sung Galaxy Grand Prime G531, loại 8GB, màu vàng đồng, số IMEL: 354621077761372, sim số 0nn; Tịch thu tiêu hủy đối 01 (một) cái kéo dài 17,5cm, phần cán bằng nhựa, màu đen, kích thước (7,3 x 6,5)m theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 18/11/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Tuy Hòa và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Tuy Hòa.

Về án phí: Áp dụng Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Võ Đặng Anh Q phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

350
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 14/2022/HSST

Số hiệu:14/2022/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuy Hòa - Phú Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về