Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 141/2024/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 141/2024/HS-PT NGÀY 17/04/2024 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Vào ngày 17 tháng 4 năm 2024 tại điểm cầu Trung tâm tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng nối với điểm cầu Thành phần tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh H. Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai bằng hình thức trực tuyến vụ án hình sự thụ lý số: 86/2024/TLPT-HS ngày 02 tháng 2 năm 2024 đối với bị cáo Tống Phước Hoàng H và bị cáo khác về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Do có kháng nghị, kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 72/2023/HS-ST ngày 21/12/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Q.

- Bị cáo có kháng cáo:

1. Tống Phước Hoàng H, sinh ngày 16/3/1985 tại Huế, tỉnh H; nơi cư trú: số A, Nguyễn Phan C, thành phố H, tỉnh H; nghề nghiệp: Kinh doanh; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tống Phước H1, sinh năm 1950, con bà Huỳnh Thị H2, sinh năm 1954; Vợ: Nguyễn Thị Ngọc N, sinh năm 1991 (là bị cáo trong vụ án); con: Có 02 người (lớn sinh năm 2016, nhỏ sinh năm 2017); tiền án, tiền sự: không; bị tạm giam từ ngày 16/10/2021. Hiện bị cáo đang chấp hành án tại Trại giam A thuộc Bộ C1 và được trích xuất về Trại tạm giam Công an tỉnh T để xét xử. (có mặt tại phiên tòa).

2. Phan Minh T, sinh ngày 25/6/1983 tại thành phố P, tỉnh Gia Lai; nơi cư trú: Số C, T, phường T, thành phố P, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: kinh doanh; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Minh G, sinh năm 1935, con bà Nguyễn Thị G1, sinh năm 1942; anh chị em ruột có 06 người, bị cáo là con út trong gia đình; Vợ: Thạch Thị Ngọc T1, sinh năm 1985; con: Có 02 người (lớn sinh năm 2011, nhỏ sinh năm 2017); tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giam từ ngày 17/10/2021 đến nay (theo vụ án khác) tại Trại tạm giam Công an tỉnh T (bị cáo có mặt tại phiên tòa).

- Bị cáo có kháng cáo, bị kháng nghị:

3. Nguyễn Thị Ngọc N, sinh ngày 24/10/1991 tại thành phố H, tỉnh H; nơi cư trú: Số A, Nguyễn Phan C, TP ., tỉnh H; chỗ ở hiện nay: F L, phường X, TP ., tỉnh H; nghề nghiệp: Kinh doanh; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên Chúa; giới tính: Nữ; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Không xác định; con bà Nguyễn Thị Mộng N1, sinh năm 1971; anh chị em ruột: Không có; Chồng: Tống Phước Hoàng H, sinh năm 1985 (là bị cáo trong vụ án); con: Có 02 người (lớn sinh năm 2016, nhỏ sinh năm 2017); tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 05/12/2022 cho đến nay (bị cáo có mặt tại phiên tòa).

* Người bào chữa cho bị cáo Tống Phước Hoàng H và Nguyễn Thị Ngọc N: Luật sư Trương Văn B - Luật sư thuộc Văn phòng L2 - Đoàn luật sư tỉnh Q; địa chỉ: Số B T, TDP F, phường N, TP ., tỉnh Q (có mặt).

* Người bào chữa cho bị cáo Phan Minh T: Luật sư Ngô Tấn L - Luật sư thuộc Văn phòng L2 - Đoàn luật sư tỉnh Q; địa chỉ: Số B T, TDP F, phường N, TP ., tỉnh Q (có mặt).

* Bị hại:

- Ông Nguyễn Đ, sinh năm 1953; trú tại: Số A đường L, phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Q. Có đơn xét xử vắng.

- Ông Nguyễn Hữu L1, sinh năm 1991; trú tại: thôn C, xã M, huyện L, tỉnh Q. Có mặt.

- Bà Hoàng Thị H3, sinh năm 1980; trú tại: TDP A, phường T, quận N, TP .. Đại diện theo uỷ quyền của bà H3: Ông Lê Văn V, sinh năm 1976 (chồng bà H3); địa chỉ: TDP A, phường T, quận N, TP ..

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ngân hàng TMCP C2 – Chi nhánh Q; địa chỉ: E L, phường Đ, tỉnh Q; đại diện theo uỷ quyền: Ông Nguyễn Trung T2 – Phó phòng tổng hợp. Ông T2 có mặt.

* Người làm chứng:

- Anh Huỳnh Ngọc H4, sinh năm 1987; trú tại: M, Phạm Văn T3, phường T, TP ., tỉnh H. (Vắng mặt)

- Anh Bùi Huỳnh T4, sinh năm 1987; trú tại: Tổ I, khu V, phường A, TP ., tỉnh H. (Vắng mặt)

- Ông Cao Minh T5, sinh năm 1966; trú tại: số nhà D, hẻm B, quốc lộ A cũ, quận T, TP .. (Vắng mặt)

- Anh Hồ Văn T6, sinh năm 1991; trú tại: xã P, huyện P, tỉnh H. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Công ty Cổ phần Đ1 đăng ký thành lập ngày 12/6/2017 tại Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh H do Tống Phước Hoàng H làm Tổng Giám đốc. Ngày 17/3/2019, Công ty Cổ phần Đ1 uỷ quyền cho hai cổ đông là ông Huỳnh Ngọc H4 và Bùi Huỳnh T4 tham gia đấu giá và đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với các thửa đất được đấu giá trúng tại dự án Khu dân cư Đ đường L thuộc phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Q, trong đó ông Huỳnh Ngọc H4 đứng tên thửa đất số 466 (tờ bản đồ số 18); ông Bùi Huỳnh T4 đứng tên thửa đất số 35 (tờ bản đồ số 17) và thửa đất số 560 (tờ bản đồ số 18), tiền đấu giá quyền sử dụng đất do Công ty Cổ phần Đ1 nộp.

Tháng 7/2019, Tống Phước Hoàng H chỉ đạo đăng ký thành lập Công ty TNHH I giao cho Phan Minh T làm Giám đốc và thành lập Công ty TNHH Một thành viên I giao cho Nguyễn Thị Ngọc N làm Giám đốc. Sau khi hai Công ty trên được thành lập, Tống Phước Hoàng H ký Quyết định chuyển nhượng quyền sử dụng 16 thửa đất do ông Bùi Huỳnh T4 và Huỳnh Ngọc H4 đứng tên sang cho Công ty TNHH I và Công ty TNHH Một thành viên I. Vì vậy, ngày 26/7/2019 Bùi Huỳnh T4 và Đoàn Thị Cẩm V1 đã chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất số 560 (tờ bản đồ số 18) cho Công ty TNHH I; Huỳnh Ngọc H4 và Huỳnh Thị N2 chuyển nhượng thửa đất số 466 (tờ bản đồ số 17) cho Công ty TNHH I; Bùi Huỳnh T4 và Đoàn Thị Cẩm V1 chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất số 35 (tờ bản đồ số 17) cho Công ty TNHH MTV I đứng tên, đồng thời Tống Phước Hoàng H chỉ đạo hai Công ty này thế chấp 03 thửa đất trên cùng các tài sản khác vào ngày 27/7/2019 để vay số tiền 38.000.000.000 đồng (Ba mươi tám tỷ đồng), giải ngân ngày 31/7/2019 tại Ngân hàng TMCP C2 - Chi nhánh Q và Tống Phước Hoàng H dùng toàn bộ số tiền này để trả nợ vay cá nhân cho ông Cao Minh T5 - Giám đốc Công ty TNHH M tại Thành phố Hồ Chí Minh mà không thông qua Hội đồng quản trị hoặc Đại hội đồng cổ đông của Công ty Cổ phần Đ1. Để che dấu việc phát hiện của Công ty Cổ phần Đ1 về việc tự ý thế chấp ba lô đất trên, Tống Phước Hoàng H đã lập hợp đồng môi giới nhằm tiến hành đưa ba lô đất đang thế chấp ra kinh doanh trên thị trường để lừa dối khách hàng, thu tiền về cho Công ty Cổ phần Đ1. Vì vậy, ngày 17 và 19/9/2019 Tống Phước Hoàng H đã cùng với Phan Minh T và Nguyễn Thị Ngọc N ký Hợp đồng dịch vụ môi giới độc quyền với tư cách đại diện các pháp nhân để Công ty Cổ phần Đ1 độc quyền môi giới, giao dịch và thu tiền của khách hàng. Tống Phước Hoàng Hưng chỉ đạo nhân viên Công ty tiếp thị ra thị trường, sau khi tìm được khách hàng, nhân viên Công ty Cổ phần Đ2 phiếu đăng ký đặt cọc; bên môi giới, bên chuyển nhượng và khách hàng ký Hợp đồng đặt cọc, với hình thức thanh toán nhanh trong thời gian 10 ngày khách hàng nộp đủ 95% giá trị sản phẩm sẽ thực hiện ký công chứng chuyển nhượng. Mặc dù khách hàng đã chuyển đủ tiền cho Công ty Cổ phần Đ1 nhưng Tống Phước Hoàng H không trả tiền cho ngân hàng để lấy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thực hiện việc công chứng chuyển nhượng mà chiếm đoạt tổng số tiền 5.760.000.000 đồng. Cụ thể như sau:

1. Tống Phước Hoàng H và Phan Minh T lừa đảo chiếm đoạt của bà Hoàng Thị H3, sinh năm 1980, trú tại Tổ dân phố A, phường T, quận N, Thành phố Hà Nội số tiền 2.320.000.000 đồng:

Ngày 27/9/2019, Tống Phước Hoàng H và Phan Minh T đại diện cho Công ty I và Công ty cổ phần Đ1 ký Hợp đồng đặt cọc số OM606SPL/2019/HĐĐC để bán lô đất OM6.06 thửa đất số 560, tờ bản đồ số 18 Dự án khu dân cư Đ, phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Q cho bà Hoàng Thị H3 với số tiền 2.320.000.000 đồng. Từ ngày 10/10/2019 đến 15/01/2020 bà Nguyễn Thị H5 đã nộp đủ tiền cho Công ty Đ1 nhưng bị Tống Phước Hoàng H chiếm đoạt đưa vào nguồn thu của Công ty cổ phần Đ1, không trả nợ cho Ngân hàng để lấy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ký công chứng chuyển nhượng cho bà Hoàng Thị H3. 2. Tống Phước Hoàng H và Phan Minh T lừa đảo chiếm đoạt của ông Nguyễn Đ, sinh năm 1953, trú tại A L, phường Đ, Thành phố Đ, tỉnh Q số tiền 1.680.000.000 đồng:

Ngày 25/11/2019, Tống Phước Hoàng H và Phan Minh T đại diện cho Công ty I và Công ty cổ phần Đ1 ký Hợp đồng đặt cọc số OM423SPL/2019/HĐĐC để bán lô đất OM4.23 thửa đất số 466, tờ bản đồ số 18 thuộc Dự án khu dân cư Đ, phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Q cho ông Nguyễn Đ với số tiền 1.680.000.000 đồng. Từ ngày 25/11/2019 đến ngày 20/12/2019 ông Nguyễn Đ đã nộp đủ 100% tiền cho Công ty Đ1 nhưng bị Tống Phước Hoàng H chiếm đoạt đưa vào nguồn thu của Công ty cổ phần Đ1, không trả nợ cho Ngân hàng để lấy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ký công chứng chuyển nhượng ông Nguyễn Đ. 3. Tống Phước Hoàng H và Nguyễn Thị Ngọc N lừa đảo chiếm đoạt của ông Nguyễn Hữu L1, sinh năm 1991, trú tại xã M, huyện L, tỉnh Q số tiền 1.760.000.000 đồng:

Ngày 30/10/2019, Tống Phước Hoàng H và Nguyễn Thị Ngọc N đại diện cho Công ty Cổ phần Đ1 và Công ty TNHH Một thành viên I ký Hợp đồng đặt cọc số OM217SPL/2019/HĐĐC để bán lô đất số OM2.17 thửa đất số 35, tờ bản đồ số 17 thuộc Dự án khu dân cư Đ, phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Q cho ông Nguyễn Hữu L1 với số tiền 1.760.000.000 đồng. Từ ngày 29/10/2019 (ngày lập phiếu đăng ký đặt cọc mua sản phẩm) đến ngày 07/11/2019 ông Nguyễn Hữu L1 đã nộp đủ tiền cho Công ty Đ1 nhưng bị Tống Phước Hoàng H chiếm đoạt đưa vào nguồn thu của Công ty cổ phần Đ1, không trả nợ cho Ngân hàng để lấy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ký công chứng chuyển nhượng cho ông Nguyễn Hữu L1. Mặc dù toàn bộ số tiền 5.760.000.000 đồng của ông Nguyễn Đ, ông Nguyễn Hữu L1 và bà Hoàng Thị H3 không được trả cho Ngân hàng để thực hiện việc giải chấp, lấy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ra, nhưng Phan Minh T và Nguyễn Thị Ngọc N vẫn ban hành nhiều thông báo cam kết trì hoãn việc công chứng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với khách hàng. Đồng thời, tiếp tục thế chấp đất để đáo hạn khoản vay tại Ngân hàng V2 vào ngày 10/3/2021 và 27/5/2021, cho đến nay các hợp đồng tín dụng vay tiền của Công ty TNHH Một thành viên I và Công ty I vẫn chưa thực hiện nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng với Ngân hàng V2. Tất cả những hành vi liên quan đến Công ty Cổ phần Đ1 nêu trên đều do Tống Phước Hoàng H tự ý quyết định, không được sự bàn bạc, thống nhất của Hội đồng quản trị hoặc đại hội đồng cổ đông của Công ty Cổ phần Đ1. Ngày 20/4/2022 Công ty Cổ phần Đ1 đã bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp và chấm dứt hoạt động.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Q đã trưng cầu giám định chữ viết, chữ ký của Phan Minh T, Nguyễn Thị Ngọc N tại các Hợp đồng đặt cọc, Hợp đồng thế chấp tài sản, Hợp đồng cho vay hạn mức; chữ ký của Tống Phước Hoàng H tại các Hợp đồng đặt cọc. Tại Kết luận của Phòng kỷ thuật hình sự Công an tỉnh Q kết luận chữ ký dưới mục Bên A, Đại diện bên thế chấp, Đại diện bên vay tại các mẫu cần giám định so với chữ ký đứng tên Phan Minh T, Nguyễn Thị Ngọc N trên mẫu so sánh là do cùng một người ký ra; Chữ ký dưới mục bên C tại các mẫu cần giám định so với chữ ký đứng tên Tống Phước Hoàng H là do cùng một người ký ra (Kết luận giám định số 1195/KLGĐ-PC09 ngày 25/10/2021).

Về trách nhiệm dân sự: ông Nguyễn Đ, ông Nguyễn Hữu L1 và bà Hoàng Thị H3 đều chưa được bồi thường số tiền bị chiếm đoạt. Buộc bị cáo Tống Phước Hoàng H phải chịu trách nhiệm chính trong việc bồi thường cho các bị hại tổng số tiền 5.760.000.000 đồng mà bị cáo đã chiếm đoạt.

Trước khi khởi tố điều tra vụ án này, ông Nguyễn Hữu L1 đã khởi kiện Công ty Cổ phần Đ1 và Công ty TNHH Một thành viên I về tranh chấp hợp đồng đặt cọc và được Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới xét xử bằng bản án có hiệu lực pháp luật số 16/2021/DS-ST ngày 08/7/2021, hiện tại ông Nguyễn Hữu L1 chưa được bồi thường dân sự theo bản án.

Ngày 25/8/2023, Nguyễn Thị Ngọc N tự nguyện nộp 150.000.000 (bị cáo N 100.000.000 đồng, bị cáo H 50.000.000 đồng) đã được chuyển vào tài khoản 3949.0.1054377.00000 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Q để khắc phục một phần hậu quả do hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của bị cáo và chồng là bị cáo H cho bị hại Nguyễn Hữu L1. Ngày 26/9/2023, vợ bị cáo Phan Minh T đã tự nguyện khắc phục một phần hậu quả cho chồng với số tiền 10.000.000 đồng theo biên lai thu tiền số 31AA/2021/0005441 ngày 26/9/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Q.

Quá trình Toà án thụ lý giải quyết vụ án, những người bị hại gồm bà Hoàng Thị H3, ông Nguyễn Đ và ông Nguyễn Hữu L1 đã cùng người đại diện của bị cáo Phan Minh T, bị cáo Nguyễn Thị Ngọc N liên hệ với Ngân hàng V3 Chi nhánh Q, theo đó các bên đã thoả thuận: ông Nguyễn Đ nộp vào Ngân hàng V3 Chi nhánh Q số tiền vay của Công ty I số tiền 1.215.008.000 đồng thời giữa công ty I và ông Nguyễn Đ đã hoàn tất hợp đồng chuyển nhượng thửa đất số 466, tờ bản đồ số 18 thuộc Dự án khu dân cư Đ, phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Q. Vì vậy, ông Đ yêu cầu bị cáo H phải lại số tiền mà ông đã trả nợ thay cho công ty I. Bị cáo Tống Phước Hoàng H đã đồng ý với yêu cầu của ông Đ. Bà Hoàng Thị H3 cũng đã nộp vào Ngân hàng V3 Chi nhánh Q số tiền vay của Công ty I số tiền 1.326.400.000 đồng, đồng thời giữa công ty I và bà Hoàng Thị H3 đã hoàn tất hợp đồng chuyển nhượng thửa đất số 560, tờ bản đồ số 18 Dự án khu dân cư Đ, phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Q. Vì vậy, bà H3 có đơn yêu cầu bị cáo H phải lại số tiền mà bà đã trả nợ thay cho công ty I. Bị cáo Tống Phước Hoàng H đã đồng ý với yêu cầu của bà Hoàng Thị H3. Ông Nguyễn Hữu L1 cũng đã nộp vào Ngân hàng V3 Chi nhánh Q số tiền vay của Công ty TNHH Một thành viên I số tiền 1.300.000.000 đồng thời giữa Công ty TNHH Một thành viên I và ông Nguyễn Hữu L1 đã hoàn tất hợp đồng chuyển nhượng thửa đất số 35, tờ bản đồ số 17 thuộc Dự án khu dân cư Đ, phường Đ, thành phố Đ, tỉnh Q. Vì vậy, ông L1 có đơn yêu cầu bị cáo H phải lại số tiền mà ông đã trả nợ thay cho Công ty TNHH Một thành viên I. Bị cáo Tống Phước Hoàng Hoàng H đã đồng ý với yêu cầu của ông L1. Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 72/2023/HS-ST ngày 21/12/2023, Tòa án nhân dân tỉnh Q đã quyết định:

1.Về tội danh: tuyên bố các bị cáo Tống Phước Hoàng H, Phan Minh T và Nguyễn Thị Ngọc N phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

2. Về điều luật áp dụng và hình phạt:

- Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Tống Phước Hoàng H 12 (mười hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.

- Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Phan Minh T 08 (tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.

- Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; khoản 2 Điều 54 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Ngọc N 04 (bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.

3. Về trách nhiệm dân sự: căn cứ quy định tại Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 584, Điều 585, Điều 586 Bộ luật dân sự. Các bị hại được nhận số tiền mà các bị cáo bồi thường được nộp tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Q. Cụ thể:

+ Bà Hoàng Thị H3 được nhận số tiền 5.000.000 đồng tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Q theo biên lai thu tiền số 31AA/2021/0005441 ngày 26/9/2023.

+ Ông Nguyễn Đ được nhận số tiền 5.000.000 đồng tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Q theo biên lai thu tiền số 31AA/2021/0005441 ngày 26/9/2023.

+ Ông Nguyễn Hữu L1 được nhận số tiền 150.000.000 đồng tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Q đã được chuyển vào tài khoản 3949.0.1054377.00000.

- Ghi nhận sự thoả thuận giữa các bị hại với bị cáo và phía đại diện Ngân hàng TMCP C2 – Chi nhánh Q. Theo đó, buộc bị cáo Tống Phước Hoàng H hoàn trả cho các bị hại cụ thể như sau:

- Bị cáo Tống Phước Hoàng H phải trả lại cho bà Hoàng Thị H3 số tiền 1.321.400.000 đồng (sau khi đã khấu trừ số tiền 5.000.000 đồng mà bị cáo Phan Minh T nộp để khắc phục một phần hậu quả).

- Bị cáo Tống Phước Hoàng H phải trả lại cho ông Nguyễn Đ số tiền 1.210.008.000 đồng (sau khi đã khấu trừ số tiền 5.000.000 đồng mà bị cáo Phan Minh T nộp để khắc phục một phần hậu quả).

- Bị cáo Tống Phước Hoàng H phải trả lại cho ông Nguyễn Hữu L1 số tiền 1.150.000.000 đồng (sau khi đã khấu trừ số tiền 150.000.000 đồng của bị cáo N đã nộp khắc phục một phần hậu quả cho bị cáo và chồng đối với bị hại Nguyễn Hữu L1).

3.Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 21, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án buộc các bị cáo Tống Phước Hoàng H, Phan Minh T và Nguyễn Thị Ngọc N, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Về án phí dân sự sơ thẩm: bị cáo Tống Phước Hoàng H phải chịu 105.628.160 đồng.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về thi hành án, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 18/01/2024, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng ban hành kháng nghị số 12/QĐ-VC2 với nội dung: không áp dụng khoản 2 Điều 54 của Bộ luật hình sự, tăng hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Thị Ngọc N; không tuyên buộc bị cáo H phải bồi thường cho các bị hại số tiền 3.681.408.000 đồng và chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Ngày 29/12/2023, bị cáo Tống Phước Hoàng H và bị cáo Phan Minh T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 02/01/2024, bị cáo Nguyễn Thị Ngọc N làm đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Tống Phước Hoàng H, Phan Minh T và Nguyễn Thị Ngọc N giữ nguyên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo; chấp nhận kháng nghị số 12/QĐ- VC2 ngày 18/01/2024 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng và đồng thời hủy bản án hình sự sơ thẩm.

Ý kiến của Luật sư bào chữa cho bị cáo: tại phiên tòa phúc thẩm, các vị Luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử hủy bản án sơ thẩm.

Căn cứ vào hồ sơ vụ án, các chứng cứ tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, luận cứ bào chữa của luật sư, lời khai của bị cáo và kết quả tranh tụng tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời khai nhận của bị cáo, người bị hại và kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử xét thấy:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an tỉnh Q quá trình điều tra, truy tố và xét xử ở cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà sơ thẩm, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng quy định.

Ngày 25/3/2024, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng mở phiên tòa xét xử phúc thẩm. Tại phiên tòa, bị cáo Tống Phước Hoàng H vắng mặt do không thực hiện được việc trích xuất bị cáo nên nên Hội đồng xét xử xét cấp phúc thẩm đã quyết định hoãn phiên tòa đảm bảo đúng luật định.

[2]. Căn cứ các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử có đủ cơ sở xác định: khoảng thời gian từ ngày 10/10/2019 đến ngày 15/01/2020, Tống Phước Hoàng H với tư cách là Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Đ1 đã chỉ đạo Phan Minh T (giám đốc Công ty I) và Nguyễn Thị Ngọc N (giám đốc Công ty TNHH Một thành viên I) thế chấp 03 thửa đất 466 và 560 (tờ bản đồ số 18), thửa số 35 (tờ bản đồ số 17) và một số tài sản khác để vay vốn tại Ngân hàng TMCP C2 – Chi nhánh Q số tiền 38.000.000.000 đồng. Sau đó, tiếp tục chỉ đạo N, T lấy tư cách Công ty I và Công ty I ký hợp đồng môi giới độc quyền với Công ty Đ1, để Công ty Đất xanh nhận tiền cọc 03 thửa đất trên của bà Hoàng Thị H3, ông Nguyễn Đ và ông Nguyễn Hữu L1, nhưng sau đó lấy nhiều lý do khác nhau để trốn tránh việc chuyển nhượng 03 thửa đất cho khách hàng.

Xét thấy, Tống Phước Hoàng H biết rõ 03 thửa đất số 466, 560, 35 nêu trên không thuộc quyền sử dụng đất của mình mà thuộc quyền sử dụng đất của Công ty Cổ phần Đ1 nhưng đã cố tình không thông qua Hội đồng quản trị hoặc Đại hội đồng cổ đông công ty, đã chỉ đạo N, T thế chấp Ngân hàng để lấy tiền trả nợ cho Cao Minh T5 (Trong đó; Tống Phước Hoàng H là người vay tiền của Cao Minh T5 mua 62 lô đất đứng tên danh nghĩa Công ty Đ1 nhưng tất cả các lô đất này H khai là của cá nhân H nhưng các cơ quan tiến hành tố tụng chưa điều tra làm rõ). Để che giấu việc chiếm đoạt tiền đối với 3 thửa đất này, H lại ký hợp đồng môi giới giữa Công ty Đ1 và 2 Công ty I và Công ty I. Với tư cách công ty M1, H đã ký hợp đồng đặt cọc với bà Hoàng Thị H3, ông Nguyễn Đ, ông Nguyễn Hữu L1 với cam kết chuyển nhượng 03 lô đất trên (H biết rõ không thể thực hiện việc chuyển nhượng được do đất đang thế chấp Ngân hàng), để nhận cọc và chiếm đoạt số tiền 5.760.000.000 đồng. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xử các bị cáo Tống Phước Hoàng H, Nguyễn Thị Hồng N3, Phan Minh T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo H khai nhận số tiền 38 tỷ đồng vay từ Ngân hàng đã chuyển khoản về tài khoản của Công ty Đ1, sau đó rút ra đưa cho bị cáo H trả cho Cao Minh T5. H khai nhận Công ty Đ1 đóng góp 5% trong tổng số tiền vay để mua bất động sản nhưng vấn đề này chưa được điều tra làm rõ. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm không đưa Công ty cổ phần Đ1 vào tham gia tố tụng là có thiếu sót.

[3]. Theo Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp có mã số: 3101071877 đăng ký lần đầu ngày 9/7/2019 và Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp có mã số: 3101071940 đăng ký lần đầu ngày 10/7/2019 đều do Phòng đăng ký kinh doanh thuộc Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Q cấp cho Công ty TNHH Một thành viên I và Công ty TNHH I thì 02 công ty này không được phép Kinh doanh bất động sản, quyền sử dụng đất không thuộc quyền sử dụng đất của mình.

Từ các phân tích nêu trên thì bị cáo H, T, N3 mặc dù H không phải chủ quyền sử dụng đất và biết rõ 03 thửa đất đang bị thế chấp để vay tiền Ngân hàng. Các bị cáo vẫn thực hiện hợp đồng đặt cọc và nhận tiền cọc các ông Nguyễn Đ, Nguyễn Hữu L1 và bà Hoàng Thị H3 với số tiền 5.760.000.000 đồng nhưng không dùng số tiền để thanh toán tiền vay cho Ngân hàng mà sử dụng cho mục đích cá nhân H. Nên hành vi của các bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và 03 hợp đồng đặt cọc này đã vô hiệu ngay từ đầu do bị lừa dối. Tuy nhiên, trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án hình sự, ông Nguyễn Đ nộp vào Ngân hàng V3 Chi nhánh Q số tiền vay của Công ty I số tiền 1.215.008.000 đồng thời giữa công ty I và ông Nguyễn Đ đã hoàn tất hợp đồng chuyển nhượng thửa đất số 466, tờ bản đồ số 18; bà Hoàng Thị H3 cũng đã nộp vào Ngân hàng V3 Chi nhánh Q số tiền vay của Công ty I số tiền 1.326.400.000 đồng, đồng thời giữa công ty I và bà Hoàng Thị H3 đã hoàn tất hợp đồng chuyển nhượng thửa đất số 560, tờ bản đồ số 18; ông Nguyễn Hữu L1 cũng đã nộp vào Ngân hàng V3 Chi nhánh Q số tiền vay của Công ty TNHH Một thành viên I số tiền 1.300.000.000 đồng thời giữa Công ty TNHH Một thành viên I và ông Nguyễn Hữu L1 đã hoàn tất hợp đồng chuyển nhượng thửa đất số 35, tờ bản đồ số 17.

Xét thấy, 03 hợp đồng đặt cọc đã vô hiệu do bị lừa dối nhưng các bên đương sự lại tiếp tục thực hiện hợp đồng và tiến hành chuyển nhượng quyền sử dụng đất là vi phạm pháp luật. Do đó, cần hủy Bản án hình sự sơ thẩm số 72/2023/HS-ST ngày 21/12/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Q để xác định lại các hợp đồng đặt cọc và hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 560, tờ bản đồ số 18; thửa đất số 446, tờ bản đồ số 18; thửa đất số 35, tờ bản đồ số 17 là vô hiệu.

[4]. Ngoài ra, đối với hợp đồng đặt cọc thửa đất số 35, tờ bản đồ số 17: ông Nguyễn Hữu L1 đã khởi kiện Công ty Cổ phần Đ1 và Công ty TNHH Một thành viên I về tranh chấp hợp đồng đặt cọc và được Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới xét xử tại Bản án dân sự sơ thẩm số 16/2021/DS-ST ngày 08/7/2021, với nội dung: “Bác yêu cầu tiếp tục thực hiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Buộc Công ty TNHH Một thành viên I phải trả cho ông Nguyễn Hữu L1 số tiền 200.000.000 đồng; buộc Công ty Cổ phần Đ1 trả cho ông L1 2.640.000.000 đồng” (BL 49-52). Xét thấy, hợp đồng đặt cọc đã được Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới lại xét xử bằng một bản án dân sự và bản án đã có hiệu lực pháp luật. Sau đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra tỉnh Q lại điều tra về chính hành vi này vì có dấu hiệu phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” nhưng lại không kiến nghị hủy bản án dân sự nêu trên là không đúng quy định pháp luật. Do đó, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm kiến nghị Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm theo hướng hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 16/2021/DS-ST ngày 08/7/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Đồng Hới, tỉnh Q.

Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xét thấy cần phải hủy toàn bộ bản án hình sự sơ thẩm để điều tra lại mới đảm bảo vụ án được điều tra, truy tố và xét xử đúng quy định pháp luật.

[5]. Vì hủy toàn bộ Bản án hình sự sơ thẩm số 72/2023/HS-ST ngày 21/12/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Q để điều tra lại nên Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không xem xét kháng cáo cũng như kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng.

[6]. Về án phí: căn cứ điểm f khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các bị cáo H, N3, T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 của Điều 355; Điều 358 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Hủy toàn bộ Bản án hình sự sơ thẩm số 72/2023/HS-ST ngày 21/12/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Q.

Giao hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Q để điều tra lại theo đúng quy định pháp luật.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

13
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 141/2024/HS-PT

Số hiệu:141/2024/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về