Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 135/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 135/2023/HS-ST NGÀY 13/07/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

 Ngày 13 tháng 7 năm 2023, tại Tòa án nhân dân thị xã Q, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 119/2023/TLST-HS ngày 30 tháng 5 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 129/2023/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 6 năm 2023 đối với bị cáo:

Phùng Thị H, sinh năm 1954.

HKTT: Thôn Hưng Thịnh, xã Hợp Thịnh, huyện D, tỉnh V; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: không biết chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phùng Văn H và bà Phùng Thị H; có chồng là Phùng Văn Khoa (đã ly hôn) và 3 con, con lớn sinh năm 1977, nhỏ sinh năm 1988.

- Tiền án: Tại bản án số 130/2018/HSST ngày 12/11/2018 của Tòa án nhân dân thành phố T Quang, tỉnh T Quang xử phạt 21 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách 42 tháng. Ngày 12/5/2022, chấp hành xong bản án.

- Tiền sự, nhân thân: Không.

- Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/3/2023 đến ngày 13/3/2023 áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú” (có mặt)

- Bị hại:

1. Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1952; trú tại: thôn Quế Ổ, xã Chi Lăng, thị xã Q, tỉnh B. (Vắng mặt)

2. Bà Lê Thị H, sinh năm 1954: trú tại: thôn Mão, xã Chi Lăng, thị xã Q, tỉnh B. (Vắng mặt)

 - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Phùng Văn K, sinh năm 1988; trú tại: Thôn Hưng Thịnh, xã Hợp Thịnh, huyện D, tỉnh V. (Có mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 07 giờ 40 phút, ngày 04/3/2023, tại thôn Quế Ổ, xã Chi Lăng, thị xã Q, tỉnh B, Công an xã Chi Lăng phối hợp với quần chúng nhân dân bắt quả tang Phùng Thị H có hành vi lừa đảo chiếm đoạt sản của bà Nguyễn Thị T. Vật chứng thu giữ: 12.000.000 đồng và 01 xe đạp nhãn hiệu Việt Nhật đã qua sử dụng, ngoài ra còn thu giữ 01 điện thoại di động Itel màu xanh đã qua sử dụng và số tiền 3.448.000 đồng Căn cứ vào lời khai của Phùng Thị H và các tài liệu, chứng cứ khác mà Cơ quan CSĐT Công an thị xã Q thu thập được xác định nội dung vụ án như sau:

Khoảng 7 giờ 15 phút, ngày 04/3/2023, Phùng Thị H đi xe đạp qua nhà bà Nguyễn Thị T thì thấy bà T đang ngồi ở trong hiên nhà, cổng mở, H nảy sinh ý định lừa đảo chiếm đoạt tài sản của bà T. H đi xe đạp vào trong sân. Khi gặp bà T, H nói: “Bà có kinh cầu an không, cho cháu mượn”, bà T hỏi H: “Mượn kinh cầu an để làm gì?”, H nói: “Cháu vừa đào được cái tiểu có mấy chỉ vàng” (Thực chất H không đào được vàng, mục đích H nói thế để bà T tin tưởng). Khi nghe H nói vậy, bà T nói với H là phải làm lễ cúng. Lúc này, H nói không có tiền mua lễ và hỏi vay 20.000.000 đồng của bà T, đồng thời để tạo niềm tin cho bà T, H còn nhờ bà T cúng lễ cho H. Bà T hỏi H ở đâu thì H nói “cháu ở ngay làng bên” (mục đích để bà T tin tưởng). Thấy vậy, bà T đồng ý cho H vay tiền. Sau đó, bà T đưa cho H số tiền 12.000.000 đồng. H cầm tiền bà T đưa và hẹn chiều sẽ bảo người sang đón bà T sang nhà làm lễ. Khi H đi ra khỏi nhà bà T một lúc thì bà T phát hiện mình bị lừa nên đã đuổi theo và gọi H quay lại nhưng H không quay lại mà đạp xe nhanh hơn. Trên đường đuổi theo H, bà T gặp anh Nguyễn Văn Thứ (là cháu bà T) đi xe ô tô nên đã ngồi lên xe ô tô của anh Thứ đuổi theo H. Đi được một đoạn, anh Thứ đuổi kịp bà H và trình báo Công an xã Chi Lăng làm việc theo quy định.

Ngoài hành vi phạm tội nêu trên, Phùng Thị H khai nhận còn thực hiện hành vi phạm tội ngày 03/3/2023. Cụ thể: Khoảng 7 giờ ngày 03/3/2023, Phùng Thị H đi xe đạp vào nhà bà Lê Thị H. Cũng với phương thức và thủ đoạn nêu trên, Phùng Thị H đã chiếm đoạt số tiền 15.000.000 đồng của bà H. Sau khi lấy được tiền, Phùng Thị H khai mang toàn bộ số tiền trên vứt xuống sông Đuống. Ngày 06/3/2023 bà H đến Công an thị xã Q trình báo.

Quá trình giải quyết vụ án, Phùng Thị H khai bị bệnh tâm thần nên Cơ quan CSĐT Công an thị xã Q đã đưa H đi giám định. Tại Kết luận giám định số 35/KLGĐ ngày 21/4/2023 của Trung tâm pháp y tâm thần khu vực miền núi phía Bắc kết luận:

“1. Phùng Thị H, sinh năm 1954, trú tại thôn Hưng Thịnh, xã Hợp Thịnh, huyện D, tỉnh V bị bệnh Các rối loạn khí sắc (cảm xúc) thực tổn, có mã F06.3 (Theo phân loại bệnh Quốc tế lần thứ 10 năm 1992 về Các rối loạn tâm thần về hành vi).

2. Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội vào ngày 03/3/2023; ngày 04/3/2023 Phùng Thị H bị bệnh Các rối loạn khí sắc (cảm xúc) thực tổn, có mã F06.3, giai đoạn ổn định. Phùng Thị H đủ khả năng nhận thức và đủ khả năng điều khiển hành vi.

3. Hiện tại (thời điểm giám định) Phùng Thị H bị bệnh Các rối loạn khí sắc (cảm xúc) thực tổn, có mã F06.3, giai đoạn ổn định. Phùng Thị H đủ khả năng nhận thức và đủ khả năng điều khiển hành vi.” Với nội dung trên, tại Cáo trạng số 83/CT-VKSQV ngày 27 tháng 5 năm 2023 của VKSND thị xã Q đã truy tố: Phùng Thị H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo Khoản 1, Điều 174 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay:

Bị cáo H thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng đã truy tố nêu trên. Bị cáo xác định hành vi của mình là phạm tội, đề nghị HĐXX miễn án phí cho bị cáo.

Bị hại là bà Nguyễn Thị T, bà Lê Thị H vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; bà T bà H đều xác định đã nhận đủ số tiền bị lừa đảo và không yêu cầu bị cáo H phải bồi thường gì thêm; bà H đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bà T đề nghị HĐXX xử phạt bị cáo theo quy định pháp luật.

Anh Phùng Văn K xác định cho bị cáo H mượn xe đạp nhưng không biết bị cáo dùng xe đạp để đi lừa đảo, anh đã nhận lại xe và không yêu cầu bị cáo bồi thường gì.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Q thực hành quyền công tố tại phiên tòa phát biểu luận tội, sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo. Khẳng định Cáo trạng truy tố các bị cáo là có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử:

- T bố bị cáo Phùng Thị H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm b, r, s, Khoản 1, 2 Điều 51; điểm g, h, Khoản 1, Điều 52; Điều 47; Điều 38 Bộ luật Hình sự; các điều 136, 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

- Xử phạt Phùng Thị H từ 9 - 12 tháng tù. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo H.

- Trả lại bị cáo Phùng Thị H 01 điện thoại di động Itel màu xanh đã qua sử dụng số Imei 35978695631805 và 3.448.000 đồng.

- Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Phùng Thị H.

Bị cáo H nhận tội, không có ý kiến gì và không tham gia tranh luận với đại diện VKSND thị xã Q, chỉ đề nghị HĐXX xem xét cho bị cáo được hưởng mức hình phạt nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Về quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra; cơ quan truy tố; hành vi tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên: Đã tuân thủ đúng và đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về: Khởi tố vụ án, khởi tố bị can, phê chuẩn quyết định khởi tố bị can; về các biện pháp điều tra như lấy lời khai bị can, lấy lời khai người chứng kiến, giám định, xác minh lý lịch, nhân thân của bị can; về việc giao nhận các văn bản tố tụng cho bị can, bị hại, người liên quan. Các tài liệu điều tra có trong hồ sơ vụ án được thu thập đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự nên là chứng cứ của vụ án.

Tại phiên tòa hôm nay, người bị hại là bà Nguyễn Thị T và bà Lê Thị H vắng mặt nhưng có đề nghị xét xử vắng mặt, đồng thời cũng đã có đầy đủ quan điểm liên quan đến quyền lợi của mình. Do vậy việc vắng mặt của các bị hại này không ảnh hưởng đến việc xét xử.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Phùng Thị H tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà ngày hôm nay phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, các bản tự khai, biên bản ghi lời khai, kết luận giám định và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở để xác định:

Trong 02 ngày 03 và 04/3/2023, tại xã Chi Lăng, thị xã Q, tỉnh B, Phùng Thị H đã đưa ra các thông tin gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác. Cụ thể:

- Ngày 03/3/2023, tại thôn Mão, xã Chi Lăng, thị xã Q, tỉnh B, Phùng Thị H đã đưa ra các thông tin gian dối để chiếm đoạt số tiền 15.000.000 đồng của bà Lê Thị H.

- Ngày 04/3/2023, tại thôn Quế Ổ, xã Chi Lăng, thị xã Q, tỉnh B, Phùng Thị H đã đưa ra các thông tin gian dối để chiếm đoạt số tiền 12.000.000 đồng của bà Nguyễn Thị T.

Tổng số tiền Phùng Thị H đã chiếm đoạt là 27.000.000 đồng.

Do vậy, có đủ cơ sở để kết luận: Bị cáo Phùng Thị H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại Khoản 1, Điều 174 Bộ luật Hình sự, đúng như Cáo trạng của VKSND thị xã Q đã truy tố.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm tới quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Bị cáo đã bị xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo vì hành vi lừa đảo với phương thưc trên năm 2018 nhưng không lấy đó làm bài học mà vẫn tiếp tục sử dụng thủ đoạn này để lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Do vậy, cần áp dụng hình phạt nghiêm, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, bị cáo là người cao tuổi, có tiền xử bệnh tâm thần (đang trong giai đoạn ổn định), vừa phải mổ cắt khối u ở lưng nên giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Tình tiết giảm nhẹ TNHS: Quá trình điều tra, bị cáo đã đầu thú, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đã tự thú khai nhận hành vi phạm tội ngày 03/3/2023 khi chưa bị phát hiện, bị cáo đã bồi thường khắc phục hậu quả cho người bị hại và được bị hại có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm b, r, s, Khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

- Tình tiết tăng nặng TNHS: Bị cáo phạm tội 02 lần, mỗi lần đều trên 2.000.000 đồng; bị cáo có 01 tiền án chưa được xóa án tích nên phải chịu tình tiết tăng nặng là “phạm tội 02 lần trở lên” và “tái phạm” theo điểm g, h, Khoản 1, Điều 52 BLHS.

[5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp, sống chung với con cháu nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Các bị hại là bà T, bà H đều xác nhận đã được trả lại đầy đủ số tiền bị chiếm đoạt nên không có yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì, vì vậy HĐXX không đặt ra xem xét.

[7] Về vật chứng vụ án, gồm có:

Đối với chiếc xe đạp Việt Nhật, quá trình điều tra xác định là của anh K. Anh K không biết bị cáo H lấy xe đi để thực hiện hành vi phạm tội nên ngày 05/5/2023, Cơ quan CSĐT Công an thị xã Q trả lại chiếc xe trên cho anh K phù hợp. Anh K không yêu cầu bà H phải bồi thường gì nên HĐXX không đặt ra xem xét.

Đối với số tiền 12.000.000 đồng thu giữ ban đầu của H cùng với chiếc xe đạp nêu trên, đây là số tiền H chiếm đoạt của bà T, cơ quan điều tra đã trả lại bà T là đúng quy định.

Đối với 01 điện thoại di động Itel màu xanh đã qua sử dụng và số tiền 3.448.000 đồng của bị cáo H, không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại bị cáo.

[8] Về án phí: Bị cáo H là người cao tuổi, có đề nghị miễn án phí nên cần miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

[9] Đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Q tại phiên tòa là có căn cứ và phù hợp với nhận định của HĐXX nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. T bố bị cáo Phùng Thị H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm b, r, s, Khoản 1, 2 Điều 51; điểm g, h, Khoản 1, Điều 52; Điều 47; Điều 38 Bộ luật Hình sự; các điều 136, 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

3. Xử phạt Phùng Thị H 10 (Mười) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án nhưng được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/3/2023 đến ngày 13/3/2023.

4. Về vật chứng vụ án: Trả lại bị cáo Phùng Thị H 01 điện thoại di động Itel màu xanh đã qua sử dụng số Imei 35978695631805 và 3.448.000 đồng.

Theo Biên bản bàn giao vật chứng ngày 31/5/2023 giữa Công an thị xã Q và Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Q.

5. Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Phùng Thị H.

6. Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kết từ ngày nhận được tống đạt hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

10
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 135/2023/HS-ST

Số hiệu:135/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Võ - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:13/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về