Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 135/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 135/2022/HS-PT NGÀY 08/04/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 08 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại N xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 122/2022/TLPT-HS ngày 08 tháng 3 năm 2022 đối với bị cáo Võ Thị S do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2022/HS-ST ngày 26/01/2022 của Tòa án nhân dân thành phố N.

- Bị cáo có kháng cáo:

Võ Thị S (Võ Thị Thu H); sinh ngày 18/3/1974 tại tỉnh Quảng Ngãi; nơi ĐKHKTT: thành phố N; chỗ ở hiện nay: thành phố N. Nghề nghiệp: Lao động phổ thông; Trình độ học vấn: 03/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Tài K và bà Võ Thị H (đều đã chết); Có chồng là Lê Văn H và có 02 con (con lớn sinh năm 1997, con nhỏ sinh năm 2004); Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 24/6/2021, có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Võ Thị S:

Luật sư Nguyễn Văn T, Công ty Luật TNHH L và Cộng sự, thuộc Đoàn Luật sư thành phố N; địa chỉ: thành phố N, bào chữa theo yêu cầu của Tòa án, Luật sư có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.

- Người bị hại: Bà Nguyễn Thị Hồng V, sinh năm 1960; Nơi cư trú: thành phố N, vắng mặt.

Ngoài ra, trong vụ án còn có người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không liên quan đến kháng cáo nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 4/2020, qua các mối quan hệ xã hội, Võ Thị S quen biết với bà Nguyễn Thị Hồng V. S giới thiệu với bà V mình tên là Dung H. Bà V kể chuyện với S việc vợ chồng ông Lê Cao B nợ bà số tiền hơn 9 tỷ đồng nhưng không trả. Nghe vậy, S đưa thông tin gian dối là S có mối quan hệ thân thiết với một người anh có chức vụ lớn ở Công an thành phố N. Tin lời S, bà V đã nhờ S giúp đỡ để lấy lại số tiền ông B nợ và hứa trả công cho S 30% của số tiền nợ lấy được. Sau đó, S thông báo với bà V, S đã nhờ được người anh Công an quen biết giải quyết để lấy lại tiền và hứa hẹn thời gian từ 20 ngày đến 25 ngày sẽ lấy đủ số tiền nợ cho bà V. Đồng thời, S liên tục điện thoại hối thúc bà V chuyển tiền để S đưa tiền bồi dưỡng nhằm được giải quyết nhanh việc lấy nợ. Từ tháng 04/2020 đến gần cuối tháng 07/2020, bà V đã đưa cho Võ Thị S tổng cộng 1.742.000.000 đồng bằng hình thức đưa tiền trực tiếp và chuyển tiền vào tài khoản số 227032649 của Võ Thị S tại chi nhánh Ngân hàng X N. Cụ thể:

- Tại quán X đường X, thành phố N, bà V đã đưa cho Võ Thị S số tiền 150.000.000 đồng.

- Tại khu vực trước chợ Đ, thành phố N, bà V đưa cho S số tiền 120.000.000 đồng.

- Tại quán cà phê trên đường L, thành phố N, bà V đưa cho S 50.000.000 đồng.

- Tại khu vực trước Siêu thị X N, bà V đưa cho S 30.000.000 đồng.

- Ngày 13 và 15/7/2020, bà V chuyển tiền vào tài khoản của S 04 lần với tổng số tiền 192.000.000 đồng.

- Ngày 21/7/2020, bà V chuyển khoản cho S số tiền 1.200.000.000 đồng.

Quá trình điều tra, Võ Thị S không thừa nhận chiếm đoạt của bà Nguyễn Thị Hồng V số tiền 1.200.000.000 đồng mà cho rằng đây là số tiền bà V trả nợ cho S. S không có giấy tờ thể hiện việc vay mượn tiền với bà V. Sau khi bà V gửi đơn tố cáo, S đã chuyển trả cho bà V số tiền 30.000.000 đồng.

* Tang vật thu giữ:

- 01 USB nhãn hiệu Kingdom DTSE9 4GB (chứa 16 file âm thanh ghi âm cuộc gọi giữa bà V và S);

- 01 USB màu đen ghi chữ C171 Team Group 8GB (chứa 03 file âm thanh ghi âm cuộc gọi giữa bà V và S);

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone XS Max gold (thu giữ của Võ Thị S).

Tại Kết luận giám định số: 45/C09-Đ2 ngày 08/3/2021 của Phân Viện khoa học hình sự tại thành phố N kết luận về đối tượng giám định: Không phát hiện dấu vết cắt, ghép, chỉnh sửa nội dung của 16 file âm thanh mẫu cần giám định.

Tại Kết luận giám định số: 7854/C09-P6 ngày 29/10/2021 của Viện khoa học hình sự, Bộ Công an kết luận về đối tượng giám định:

- Không phát hiện dấu vết cắt ghép, chỉnh sửa nội dung của 03 file âm thanh mẫu cần giám định.

- Tiếng nói của người phụ nữ xưng là “em” trong mẫu cần giám định (được ký hiệu là “S” trong Bản dịch nội dung ghi âm mẫu cần giám định) và tiếng nói của Võ Thị S trong mẫu so sánh là của cùng một người.

- Nội dung các cuộc hội thoại trong mẫu cần giám định đã được chuyển thành văn bản.

Bị hại là bà Nguyễn Thị Hồng V xác nhận khoảng tháng 04/2020, thông qua anh N ở Quảng Nam cho số điện thoại của bà Dung H 0905.078.048 và 0906.146.147. Bà V liên lạc và gặp Dung H tại quán X đường X thành phố N. Tại đây bà V nhờ Dung H môi giới bán căn nhà của bà V và Dũng H có nói với bà V việc quen biết với nhiều người Công an thành phố N nên bà V nhờ Dung H lo đòi giúp số tiền 9.421.000.000 đồng mà vợ chồng Lê Cao B, Phan Thị A nợ bà V. Bà Dung H đồng ý giúp và nói bà V đưa 20.000.000 đồng để lo nên bà V đưa số tiền này cho Dung H. Ngày hôm sau, bà Dung H liên lạc với bà V thông báo đã có người Công an tại thành phố N đồng ý lo giúp số tiền trên và hứa hẹn trong vòng 25 ngày sẽ lấy hết số tiền trên giao cho bà V, bà Dung H sẽ đứng ra nhận và giao cho người Công an này. Vì tin lời bà Dung H là đúng nên từ tháng 04 đến tháng 07/2020, bà V giao tiền cho bà Dung H tổng số tiền 5.600.000.000 đồng. Tuy nhiên, quá trình điều tra, S chỉ thừa nhận số tiền mặt S đã nhận của bà V là 542.000.000 đồng. Riêng số tiền 1.200.000.000 đồng bà V chuyển vào tài khoản cá nhân của S thì S không thừa nhận cho rằng đây là số tiền bà V mượn tiền vay của S đã chuyển trả nhưng bà V không thừa nhận, cho rằng đây là thủ đoạn lừa dối của S, thực tế không có việc vay mượn nào cả. Do không có chứng từ để chứng minh khoản tiền mặt đã đưa cho S nên bà V không yêu cầu gì đối với số tiền chênh lệch so với lời khai của S. Vì vậy, bà V chỉ yêu cầu S trả lại toàn bộ số tiền bà V đã chuyển khoản cho S và số tiền mặt S đã thừa nhận. Tổng cộng là 1.742.000.000 đồng.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là ông Lê Cao B xác nhận từ tháng 03 đến tháng 06/2020, ông không nhận được điện thoại của người nào và không có ai đến nhà để đòi nợ bà V. Việc liên quan giữa ông và bà V đã được giải quyết xong năm 2017. Đến nay ông không hiểu vì sao bà V lại nói ông đang nợ bà V và ông khẳng định ông không nợ bà V. Nếu bà V có chứng cứ thì khởi kiện ông tại Tòa án dân sự giải quyết.

Bản Cáo trạng số: 03/CT-VKS-P2 ngày 20/12/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N đã truy tố bị cáo Võ Thị S về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật Hình sự.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2022/HS-ST ngày 26/01/2022 của Tòa án nhân dân thành phố N đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Võ Thị S phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm a, khoản 4, Điều 174, điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Võ Thị S 12 (mười hai) năm 6 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt, ngày 24/6/2021.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Kháng cáo:

Ngày 09/02/2022, bị cáo Võ Thị S nộp đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phi n tòa phúc thẩm:

Bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại N phát biểu cho rằng bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ mới sau khi xét xử sơ thẩm nên không có cơ sở xem xét giảm hình phạt. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Luận cứ của người bào chữa cho bị cáo có nội dung: Về hoàn cảnh phạm tội, gia đình bị cáo gặp nhiều khó khăn về kinh tế, bị cáo là lao động chính phải kiếm tiền để nuôi gia đình; hoàn cảnh gia đình khó khăn đã tác động đến nhận thức, hành vi của bị cáo, dẫn đến vi phạm pháp luật. Về nhân thân: bị cáo chưa có tiền án tiền sự, phạm pháp do thiếu hiểu biết. Về các tình tiết giảm nhẹ, quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo luôn thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi vụ việc xảy ra, bị cáo đã tích cực bồi thường thiệt hại số tiền 30.000.000đ. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự, quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt do bị cáo có hai tình tiết giảm nhẹ qui định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Võ Thị S khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án; có đủ cơ sở kết luận: khoảng tháng 04/2020, khi biết thông tin về việc có người nợ bà Nguyễn Thị Hồng V một số tiền lớn không trả, bị cáo Võ Thị S đã đưa thông tin gian dối có quan hệ thân thiết với một người có chức vụ làm việc ở Công an thành phố N có thể giải quyết vụ việc để lấy lại tiền nợ, bà V tưởng thật nên nhờ bị cáo giúp đỡ. Từ tháng 04 đến tháng 07/2020, bị cáo Võ Thị S nhiều lần yêu cầu bà V đưa tiền để được giải quyết nhanh việc thu hồi nợ và chiếm đoạt của bà V số tiền 1.742.000.000 đồng. Thực tế, bị cáo không có mối quan hệ với người có chức vụ làm việc ở Công an thành phố N để giúp bà V đòi nợ.

[2] Hành vi của bị cáo Võ Thị S đã phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự như bản án sơ thẩm đã qui kết là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo: hành vi phạm tội của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội. Bị cáo phạm tội nhiều lần là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm đã xét bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn; bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã bồi thường, khắc phục một phần hậu quả cho người bị hại, được người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự và xử phạt bị cáo 12 năm 06 tháng tù là tương xứng với tính chất và mức độ, hậu quả hành vi phạm tội. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ mới nên không có cơ sở xét giảm hình phạt.

[4] Mặc dù bị cáo có hai tình tiết giảm nhẹ qui định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 nhưng bị cáo có một tình tiết tăng nặng quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự 2015 và số tiền bị cáo khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại không lớn so với số tiền chiếm đoạt. Do đó, quan điểm của người bào chữa đề nghị áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự 2015 để xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là không có cơ sở chấp nhận.

[5] Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự; Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Võ Thị S;

Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2022/HS-ST ngày 26/01/2022 của Toà án nhân dân thành phố N.

1. Áp dụng điểm a, khoản 4, Điều 174, điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Võ Thị S 12 (mười hai) năm 6 (sáu) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam, ngày 24/6/2021.

2. Án phí hình sự phúc thẩm:

Bị cáo Võ Thị S phải chịu 200.000đ.

3. Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

395
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 135/2022/HS-PT

Số hiệu:135/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về