Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 133/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TÂY NINH, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 133/2021/HS-ST NGÀY 30/11/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh T, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 116/2021/HSST ngày 21 tháng 10 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 125/2021/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 11 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: NGUYỄN V N , sinh năm 1972 tại tỉnh T; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Khu phố Long Thới, phường L T T, thị xã H T, tỉnh T (do bỏ địa phương nên đã bị xóa hộ khẩu thường trú từ năm 2005), chỗ ở hiện nay: Sống lang thang; nghề nghiệp: không có; trình độ văn hóa: không biết chữ; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Cao Đài; giới tính: Nam; cha: Nguyễn Văn P, sinh năm 1930 (chết), mẹ: Nguyễn Thị L, sinh năm 1933 (chết); vợ: Trần Thị Như T, sinh năm 1979 (chung sống như vợ chồng từ năm 2005, không đăng ký kết hôn), có 01 người con sinh năm 2007;

Tiền sự: Không có.

Tiền án: Bản án số: 63/2019/HSST ngày 22/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện C T, tỉnh T xử phạt bị cáo 01 năm 06 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 11/01/2021, chưa thi hành tiền án phí hình sự 200.000 đồng, án phí dân sự 575.000 đồng và tiền bồi thường 11.500.000 đồng.

Nhân thân:

- Bản án số: 16/HSST ngày 23/4/1999 của Tòa án nhân dân huyện H T, tỉnh T xử phạt bị cáo 03 tháng 07 ngày tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo chưa thi hành án tiền án phí 50.000 đồng (Quyết định số: 01/2007/QĐ-VDS ngày 16/3/2007 của TAND huyện H T miễn thi hành tiền án phí 50.000 đồng cho bị cáo).

- Bản án số: 60/STHS ngày 13/9/2000 của Tòa án nhân dân huyện H T, tỉnh T xử phạt bị cáo 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo chưa thi hành tiền án phí 50.000 đồng và tiền bồi thường thiệt hại 450.000 đồng (Chi cục Thi hành án dân sự huyện H T không có thụ lý thi hành Bản án số: 60/STHS ngày 13/9/2000 của Tòa án nhân dân huyện H T đối với việc thi hành tiền án phí và tiền bồi thường cho người bị hại).

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 04/7/2021, chuyển sang tạm giam từ ngày 07/7/2021 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

* Bị hại:

1/ Ông Phan Văn Q, sinh năm 1959; địa chỉ: Số nhà ST, đường T Đ T, ấp L B, xã L T N, thị xã H T, tỉnh T - (vắng mặt).

2/ Ông Đinh Văn N, sinh năm 1968; địa chỉ: Số nhà BNB, Tổ B, ấp B L, xã T B, huyện C T, tỉnh T - (có mặt).

3/ Ông Nguyễn H A, sinh năm 1973; địa chỉ: Ấp T L, xã T B, thành phố T N, tỉnh T - (vắng mặt).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Bà Trần Thị Đ, sinh năm 1952; địa chỉ: Số nhà KNC, đường Pasteur, Khu phố B, Phường H, thành phố T N, tỉnh T - (có đơn đề nghị xử vắng mặt).

2/ Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1964; địa chỉ: Số nhà BBN, ấp L B, xã L T N, thị xã H T, tỉnh T - (có đơn đề nghị xử vắng mặt).

3/ Ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1962; địa chỉ: Khu phố H T, phường H N, thành phố T N, tỉnh T - (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn V N không có nghề nghiệp ổn định, để có tiền tiêu xài nên N nảy sinh ý định đi tìm người có nhu cầu mua cây, dùng thủ đoạn gian dối giả làm chủ vườn để bán cây và chiếm đoạt tiền của người mua. Trong khoảng thời gian từ tháng 6/2021 đến tháng 7/2021, Nguyễn Văn N đã thực hiện 03 vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản trên địa bàn thành phố T N, thị xã H T và huyện D M C, tỉnh T cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng 08 giờ ngày 04/6/2021, Nguyễn V N điều khiển xe mô tô gắn biển số 52K5-xxxx đi trên đoạn đường 781 hướng từ cầu K13 về Ủy ban nhân dân xã P, huyện D M C, N nhìn thấy vườn cây tràm khoảng 15 năm tuổi có diện tích 300m2 tại ấp N H, xã B N, huyện D M C, tỉnh T của bà Trần Thị Đ, sinh năm 1952, ngụ tại Khu phố B, Phường H, thành phố T nên nảy sinh ý định tìm người để lừa bán lấy tiền tiêu xài. Do biết ông Nguyễn Hoàng A, sinh năm 1973, ngụ tại ấp T L, xã T B, thành phố T N làm nghề mua bán cây nên N đã liên hệ, nói dối có vườn cây tràm cần bán và kêu ông H A đến xem, nếu được giá sẽ bán. Khoảng 15 giờ cùng ngày, theo lời chỉ dẫn của N, ông H A đến khu vực cầu K13 để xem vườn tràm, hai bên thỏa thuận qua điện thoại đồng ý mua bán vườn cây tràm với số tiền 6.000.000 đồng, đặt cọc trước 2.000.000 đồng, số tiền còn lại khi đến cưa cây sẽ đưa đủ. Do sợ bị phát hiện và muốn tránh mặt ông H A nên N đến khu vực cửa số 1 chợ Long Hoa thuộc thị xã H T, tỉnh T thuê ông Nguyễn Thanh Đ làm nghề chạy xe ôm đến gặp ông H A 02 lần để nhận số tiền 2.000.000 đồng và 4.000.000 đồng đem về đưa cho N, N trả tiền thuê cho ông Đ 02 lần là 600.000 đồng. Số tiền chiếm đoạt của ông Nguyễn H A, N tiêu xài cá nhân hết.

Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 05/6/2021, trong lúc ông Nguyễn H A đang cưa cây tràm thì bà Trần Thị Đ phát hiện, ngăn chặn và trình báo Công an xã B N, huyện D M C. Ông Nguyễn H A đã bồi thường cho bà Đ số tiền 3.000.000 đồng.

Vụ thứ hai: Khoảng 15 giờ không rõ ngày trong tháng 6 năm 2021, Nguyễn V N điều khiển xe mô tô Honda Cup 78 không nhớ biển số đi trên đoạn đường số HS - N Q thuộc ấp L H, xã T T, thị xã H T, tỉnh T thì nhìn thấy 01 đoạn gỗ tràm dài khoảng 12m, chu vi khoảng 160cm đã cưa sẵn của ông Nguyễn V H, sinh năm 1964, ngụ tại ấp L B, xã L T N, thị xã H T đang để cặp đường nên N nảy sinh ý định tìm người để lừa bán lấy tiền tiêu xài. Sau đó, N chạy xe đến trại mộc của ông Phan Văn Q, sinh năm 1959, ngụ tại ấp L B, xã L T N, thị xã H T, N nói dối với ông Q là có 01 đoạn gỗ tràm cần bán, kêu ông Q đến xem, nếu được giá sẽ bán. Sau khi đến xem, ông Q đồng ý mua với số tiền 5.000.000 đồng và đưa trước cho N 2.200.000 đồng. Sau đó, ông Q chuẩn bị vận chuyển đoạn gỗ về trại mộc thì ông Nguyễn V H là chủ đoạn gỗ trên phát hiện, ngăn cản.

Vụ thứ ba: Khoảng 08 giờ ngày 04/7/2021, Nguyễn V N điều khiển xe mô tô gắn biển số 52K5-xxxx đi trên đoạn đường thuộc khu phố H T, phường H N, thành phố T thì nhìn thấy vườn cây tràm khoảng 20 năm tuổi có diện tích 500m2 của ông Nguyễn V N, sinh năm 1962, ngụ tại nhà số HNB đường Nguyễn H T, khu phố H Th, phường H N, thành phố T N nên nảy sinh ý định tìm người để lừa bán lấy tiền tiêu xài. Sau đó, N điều khiển xe đến khu vực xã T B, huyện C T, tỉnh T thì gặp ông Đinh V N, sinh năm 1968, ngụ ấp B L, xã T B, huyện C T đang thu mua vườn cây, N nói dối với ông N là có vườn cây tràm cần bán, kêu ông N đến xem, nếu được giá sẽ bán. Sau khi được N dẫn đến xem vườn cây tràm, ông N tin tưởng đồng ý mua với số tiền 6.500.000 đồng. Đến khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày, tại khu vực đường Võ Văn T thuộc Khu phố M, Phường H, thành phố T, N đang nhận của ông N 3.000.000 đồng tiền đặt cọc mua vườn cây tràm thì bị Công an thành phố T bắt quả tang.

* Vật chứng thu giữ:

- 01 giấy chứng minh nhân dân số 38082xxxx, cấp ngày 21/02/2014, nơi cấp Công an tỉnh Cà Mau, họ và tên Nguyễn Thành Đ, sinh ngày 01/01/1971, nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: xã Phú Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau.

- 01 điện thoại di động màu đen, sim số 0969 026 xxx, số Imei 358373329918147.

- 01 biển số xe mô tô 52K5-xxxx.

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Metallicstar, biển số 70H7-xxxx.

- Tiền Việt Nam 3.000.000 đồng.

* Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra, ông Đinh Văn N đã nhận lại số tiền 3.000.000 đồng, không yêu cầu bồi thường thiệt hại; ông Phan Văn Q yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền đã chiếm đoạt 2.200.000 đồng; ông Nguyễn Hoàng A yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền đã chiếm đoạt 6.000.000 đồng.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình; ông N xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại bản cáo trạng số: 116/CT-VKSTPTN ngày 20 tháng 10 năm 2021 Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh T đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn N về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 174 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh T trong phần tranh luận đã giữ nguyên Quyết định truy tố bị cáo Nguyễn V N về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 174; các điểm g, h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn V N mức án từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù; miễn áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận ông Đinh Văn N đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì khác. Buộc bị cáo bồi thường số tiền đã chiếm đoạt cho ông Phan V Q 2.200.000 đồng, cho ông Nguyễn H A 6.000.000 đồng.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng các Điều 46, 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

* Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đã ăn năn hối cải, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm trở về xã hội lao động kiếm tiền trả lại cho các bị hại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở xác định:

Do muốn có tiền để tiêu xài cá nhân, Nguyễn V N đã dùng thủ đoạn gian dối lừa bán cây của người khác để chiếm đoạt của ông Nguyễn H A số tiền 6.000.000 đồng, của ông Phan V Q 2.200.000 đồng và của ông Đinh Văn N 3.000.000 đồng; tổng số tiền N đã chiếm đoạt là 11.200.000 đồng. Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn N đã đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 174 của Bộ luật Hình sự.

[3] Bị cáo Nguyễn V N là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, vì mục đích vụ lợi cho bản thân, bị cáo đã dùng thủ đoạn gian dối, tạo lòng tin để chiếm đoạt tài sản của người khác. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân thành phố T truy tố bị cáo Nguyễn V N về tội “Lừa đảo chiếm đạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 174 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ đúng pháp luật.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ, làm mất trật tự xã hội tại địa phương, bị cáo ý thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng do chay lười lao động, lợi dụng lòng tin của người khác để chiếm đoạt tài sản của họ phục vụ cho mục đích tiêu xài cá nhân, xem thường pháp luật, nên dẫn bị cáo vào con đường phạm tội. Vì vậy, cần có mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm. Do đó, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để trừng trị và giáo dục ý thức pháp luật để sau khi chấp hành xong hình phạt tù bị cáo sẽ trở thành công dân tốt, sống có ích cho gia đình và xã hội.

[5] Khi quyết định hình phạt có xem xét đến tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về tình tiết tăng nặng: Chỉ trong thời gian ngắn bị cáo N đã thực hiện 03 vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản là phạm tội nhiều lần, bị cáo có 01 tiền án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chưa được xóa, nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm. Đây là những tình tiết tăng nặng được quy định tại điểm g, h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, bị cáo còn có 02 tiền án đã xóa, nên cũng cần xem xét khi lượng hình.

Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thật thà khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xét bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản nên miễn áp dụng hình phạt bổ sung.

[6] Về xử lý vật chứng:

Ghi nhận trong quá trình điều tra, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T đã trả cho chị Trần Thị N T 01 xe mô tô nhãn hiệu Metallicstar, biển số 70H7-xxxx và trả lại cho ông Đinh Văn N số tiền 3.000.000 đồng.

Đối với 01 giấy chứng minh nhân dân số 38082xxxx, cấp ngày 21/02/2014, nơi cấp Công an tỉnh Cà Mau mang tên Nguyễn Thành Đ, sinh ngày 01/01/1971, nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: xã Phú Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau và 01 biển số xe mô tô 52K5-xxxx không xác định được chủ sở hữu, không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy; 01 điện thoại di động màu đen của bị cáo sử dụng vào việc phạm tội, nên cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận ông Đinh Văn N đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì khác. Buộc bị cáo bồi thường số tiền đã chiếm đoạt cho ông Phan Văn Q 2.200.000 đồng, cho ông Nguyễn H A 6.000.000 đồng.

[8] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn V N phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm g, h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Nguyễn V N 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 04/7/2021.

Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo vì không có khả năng thi hành.

2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng các Điều 584, 589 của Bộ luật Dân sự:

- Ghi nhận ông Đinh Văn N đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì khác.

- Buộc bị cáo Nguyễn V N bồi thường cho ông Phan Văn Q 2.200.000 đồng, cho ông Nguyễn H A 6.000.000 đồng.

Kể từ ngày ông Phan Văn Q, ông Nguyễn H A có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị cáo Nguyễn V N không chịu trả số tiền trên thì hàng tháng bị cáo N còn phải trả cho ông Q, ông A số tiền lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo quy định tại Điều 468 của Bộ luật Dân sự.

3. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 giấy chứng minh nhân dân số 38082xxxx, cấp ngày 21/02/2014, nơi cấp Công an tỉnh Cà Mau, họ và tên Nguyễn Thành Đ, sinh ngày 01/01/1971, nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: xã Phú Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau; 01 biển số xe mô tô 52K5-xxxx.

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động màu đen, sim số 0969 026 xxx, số Imei 358373329918147.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án:

Bị cáo Nguyễn V N phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 410.000 đồng (bốn trăm mười nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo và ông Đinh V N được quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh T để xét xử phúc thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

100
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 133/2021/HS-ST

Số hiệu:133/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tây Ninh - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về