Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 129/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT - TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 129/2022/HS-ST NGÀY 07/07/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 07 tháng 7 năm 2022, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 137/2022/TLST-HS ngày 23 tháng 6 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 141/2022/QĐXXST - HS ngày 27/6/2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Thanh K, sinh năm: 1994, tại: Đắk Nông; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú: Tổ dân phố N, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Đ1; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Không; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông: Phạm Văn S, sinh năm: 1970 và bà: Nguyễn Thị L, sinh năm:1975; chức vụ, đảng phái, đoàn thể: Không; tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Tại bản án số 102/2018/HS-ST ngày 24/4/2018, Tòa án nhân dân thành phố B tỉnh Đắk Lắk xử phạt Phạm Thanh K 01 (một) năm tù, về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, đã chấp hành xong hình phạt tù và án phí vào ngày 30/8/2018. Bị cáo bị bắt, tạm giam ngày 17/3/2022, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an Thành phố Đà Lạt.

- Người bị hại: Anh Phạm Thế L, sinh năm: 1992 Địa chỉ: Số S đường L, Phường C, Thành phố Đ3, Tỉnh Lâm Đồng.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Chị Đổng Thị Tú T, sinh năm: 1999 Địa chỉ: Số M đường Đ2, Phường S, Thành phố Đ3, Tỉnh Lâm Đồng.

2. Bà Lê Phan Thị Thanh T2, sinh năm: 1975 Địa chỉ: Số T1 đường N2, phường P, Thành phố T3, Tỉnh Khánh Hòa.

3. Anh Nguyễn Trương Công D, sinh năm: 1991 Địa chỉ: Số M2 đường số B1, thôn Đ4, xã V, Thành phố T3, Tỉnh Khánh Hòa.

(Bị cáo có mặt; anh L và ông D có đơn xin xét xử vắng mặt, chị T và chị T1 vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Thanh K, sinh năm: 1994 là đối tượng đã phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” vào năm 2018. Sau khi chấp hành án xong trở về địa phương, K không có nghề nghiệp ổn định, do cần tiền tiêu xài cá nhân nên K nảy sinh ý định lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Vào khoảng 12 giờ 00 ngày 14/3/2022, K lấy tên giả là “Đạt” rủ chị Đổng Thị Tú T, sinh năm: 1999 là bạn mới quen trên mạng xã hội Facebook cùng đi taxi đến quán nhậu Cây Rừng, Phường 4, TP Đà Lạt để mua điện thoại di động động hiệu Iphone 13 Promax màu xanh của anh Phạm Thế L, sinh năm: 1992, HKTT: 6B Mê Linh, Phường 9, TP Đà Lạt mà anh L đăng bán điện thoại di động này trên ứng dụng “Chợ tốt” trước đó. K hẹn anh L đến quán Cây Rừng để xem, kiểm tra điện thoại. Khi anh L đến điểm hẹn thì thấy K và T, L đưa điện thoại nêu trên cho K xem để kiểm tra, sau đó K đưa cho T xem điện thoại nhưng do T không biết kiểm tra nên đưa lại cho K; Lúc này, K nói với L là đồng ý mua điện thoại này với giá 28.000.000 đồng (hai mươi tám triệu đồng), K yêu cầu L đăng xuất Icloud, L đăng xuất và đưa điện thoại lại cho K thì K nói với L cho số tài khoản để K chuyển tiền mua điện thoại cho L, L đưa cho K số tài khoản, do tin tưởng K nên L đi vào nhà vệ sinh. Lúc này, K cầm điện thoại và nói với T để K ra ngoài nhờ anh taxi (người chở K và T đến quán) kiểm tra điện thoại dùm, K đi ra khỏi quán Cây Rừng và bắt taxi đi ra bờ hồ Xuân Hương uống cà phê rồi tiếp tục bắt taxi đi thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Đến nơi K bán chiếc điện thoại di động nêu trên cho tiệm điện thoại “Thiên Kim” ở đường Thái Nguyên, Phường Phước Tân, Thành phố Nha Trang do chị Lê Phan Thị Thanh T1, sinh năm: 1975 làm chủ, chị T1 đồng ý mua điện thoại với giá 24.000.000 đồng (hai mươi bốn triệu đồng) thanh toán bằng hình thức chuyển khoản nhưng K yêu cầu trả tiền mặt. Do đó, chị T1 gọi điện thoại cho anh Nguyễn Trương Công Danh, sinh năm:

1991 đến mua điện thoại. Danh đến kiểm tra điện thoại và đồng ý mua với giá 24.000.000 đồng và đưa cho bà T1 1.000.000 đồng (một triệu đồng) tiền môi giới. Số tiền bán được điện thoại thì K đã trả nợ cho một người tên Hoàng (không rõ nhân thân, lai lịch) 20.000.000 đồng, số tiền còn lại K đã tiêu xài cá nhân hết.

Còn anh L khi quay lại thì không thấy K và điện thoại nên nghĩ mình đã bị lừa nên cùng với T đến Cơ quan Công an Phường 4, thành phố Đà Lạt trình báo sự việc trên. Ngày 16/3/2021, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa đã mời K đến làm việc, tại đây K khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như trên (BL: 116-137).

Đồ vật, tài liệu thu giữ, tạm giữ:

- 01 điện thoại hiệu Iphone 13 Promax màu xanh 128GB, Imei number:

358612417544889, Serial number: GPXD4P67DM.

- 01 điện thoại hiệu iphone 6 màu vàng 16GB, số IMEI: 355406076740570, đã qua sử dụng không kiểm tra chất lượng của Phạm Thanh K (BL: 56-59).

Người bị hại: Anh Phạm Thế L, sinh năm: 1992, HKTT: 6B Mê Linh, Phường 9, TP Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.

Tại kết luận định giá tài sản số 21/KL-ĐG ngày 23/3/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Đà Lạt xác định: 01 điện thoại hiệu Iphone 13 Promax màu xanh, dung lượng 128GB, Imei:

358612417544889, Serial number: GPXD4P67DM có giá trị là 28.000.000 đồng (hai mươi tám triệu đồng). Cơ quan CSĐT Công an thành phố Đà Lạt đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 23 ngày 28/3/2022 trả lại chiếc điện thoại trên cho anh L, anh L không có yêu cầu gì khác (BL: 42, 43, 48, 49).

Tại bản cáo trạng số 136/CT-VKSĐL-LĐ ngày 20/6/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt truy tố bị cáo Phạm Thanh K về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Thanh K khai nhận, do không có tiền tiêu xài, K đã nãy sinh ý định chiếm đoạt tài sản của người khác để phục vụ cho nhu cầu của cá nhân, nên vào ngày 14/3/2022, tại quán nhậu Cây Rừng ở Phường 4, Thành phố Đà Lạt, K đã thực hiện hành vi gian dối chiếm đoạt của anh L 01 điện thoại di động hiệu Iphone 13 và mang đi Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa bán để lấy tiền tiêu xài cá nhân như cáo trạng truy tố là hoàn toàn chính xác; bản thân bị cáo không thắc mắc, khiếu nại gì đối với cáo trạng truy tố và xin được giảm nhẹ hình phạt.

Sau phần luận tội, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Phạm Thanh K về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm s khoản 1 và Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo K từ 24 (hai mươi bốn) đến 30 (ba mươi) tháng tù.

Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo phải bồi thường cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Trương Công Danh số tiền 24.000.000 đồng.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu bán sung Ngân sách Nhà nước 01 điện thoại hiệu Iphone 6 màu vàng 16GB, là phương tiện bị cáo dùng liên lạc với anh L để thực hiện hành vi phạm tội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo Phạm Thanh K: Do không có tiền tiêu xài, Phạm Thanh K nảy sinh ý định lên ứng dụng “Chợ tốt” để thực hiện hành vi chiếm đoạt điện thoại. Vào khoảng 12 giờ 00 phút ngày 14/3/2022, tại quán nhậu Cây Rừng, Phường 4, Thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, K đã dùng thủ đoạn gian dối bằng cách dùng tên giả là “Đạt” rủ chị Đổng Thị Tú T, là bạn mới quen trên mạng xã hội Facebook cùng đi taxi đến quán nhậu Cây Rừng, tọa lạc tại Phường 4, TP Đà Lạt để mua điện thoại di động hiệu Iphone 13 Promax màu xanh của anh Phạm Thế L được rao bán trên ứng dụng “Chợ tốt” trước đó. K hẹn anh L đến quán Cây Rừng để xem, kiểm tra điện thoại. Khi anh L đến điểm hẹn thì thấy K và T, L đưa điện thoại nêu trên cho K xem để kiểm tra, sau đó K đưa cho T xem điện thoại nhưng do T không biết kiểm tra nên đưa lại cho K. K nói với L là đồng ý mua điện thoại này với giá 28.000.000 đồng (hai mươi tám triệu đồng), K yêu cầu L đăng xuất Icloud, L đăng xuất và đưa điện thoại lại cho K thì K nói với L cho số tài khoản để K chuyển tiền mua điện thoại cho L, L đưa cho K số tài khoản, do tin tưởng K nên L đi vào nhà vệ sinh. Lúc này, K cầm điện thoại và nói với T để K ra ngoài nhờ anh taxi (người chở K và T đến quán) kiểm tra điện thoại dùm, K đi ra khỏi quán Cây Rừng và bắt taxi đi ra bờ hồ Xuân Hương uống cà phê rồi tiếp tục bắt taxi đi thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa và bán chiếc điện thoại di động nêu trên với giá 24.000.000 đồng (hai mươi bốn triệu đồng) để tiêu xài cho nhu cầu cá nhân.

Theo Kết quả định giá tài sản số 21/KL-ĐG ngày 23/3/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Đà Lạt xác định: 01 (một) điện thoại hiệu Iphone 13 Promax màu xanh, dung lượng 128GB, Imei:

358612417544889, Serial number: GPXD4P67DM có giá trị là 28.000.000đ (hai mươi tám triệu đồng).

[3] Xét thấy, bị cáo Phạm Thanh K là người đã trưởng thành và có đủ năng lực về trách nhiệm hình sự. Bản thân bị cáo đã từng chấp hành hình phạt tù về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản nên càng biết rõ việc dùng thủ đoạn gian dối làm cho chủ tài sản tin đó là sự thật, để chủ tài sản tự nguyện giao tài sản của mình cho bị cáo và bị cáo chiếm đoạt là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện nhằm thỏa mãn cho nhu cầu cá nhân. Hành vi của Phạm Thanh K không chỉ xâm phạm vào quyền sở hữu đối với tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa, lời khai của người bị hại và của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng trong quá trình điều tra, phù hợp với tài liệu chứng cứ đã thu thập trong quá trình điều tra vụ án. Có đủ căn cứ kết luận hành vi của Phạm Thanh K phạm vào tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự, như cáo trạng số 136/CT-VKS ngày 20/6/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng truy tố và kết luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa là hoàn toàn có căn cứ và đúng pháp luật.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ: Do bị cáo thành khẩn khai báo thể hiện sự ăn năn hối lỗi về hành vi phạm tội của mình nên áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự là tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo là phù hợp.

[5] Trong vụ án này còn có Đổng Thị Tú T, là người đi cùng với K đến quan nhậu Cây Rừng. Quá trình điều tra thể hiện, T Không biết và không trao đổi, bàn bạc gì về việc chiếm đoạt chiếc điện thoại của anh L với K nên không có có sở xử lý là phù hợp.

[6] Đối với Lê Phan Thị Thanh T1 và Nguyễn Trương Công Danh là người mua chiếc điện thoại nêu trên không biết là tài sản do K phạm tội mà có nên không có căn cứ xử lý hình sự đối với chị T1 và anh Danh. Riêng người tên Hoàng (không rõ nhân thân, lai lịch), Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Đà Lạt tiếp tục xác minh để làm rõ tại thời điểm K trả nợ cho Hoàng, Hoàng có biết đây là số tiền do K phạm tội mà có hay không nên tiếp tục điều tra, làm rõ và xử lý theo quy định của phạp luật.

[7] Về trách nhiệm dân sự:

[7.1] Tài sản bị cáo chiếm đoạt gồm 01 (một) điện thoại hiệu Iphone 13 Promax màu xanh, có giá trị là 28.000.000 đồng (hai mươi tám triệu đồng). Quá trình điều tra đã trả lại chiếc điện thoại trên cho anh Phạm Thế L, anh L không có ý kiến yêu cầu gì thêm nên không đề cập.

[7.2] Tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Trương Công Danh có đơn xin xét xử vắng mặt đồng thời yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền 24.000.000đ (hai mươi bốn triệu đồng). Bi cáo đồng ý có trách nhiệm bồi thường số tiền này cho ông Danh nên cần chấp nhận.

[8] Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra đã thu giữ 01 điện thoại hiệu iphone 6 màu vàng 16GB của Phạm Thanh K, là phương tiện, công cụ bị cáo dùng để liên lạc với người bị hại khi thực hiện hành vi phạm tội nên tịch thu bán sung ngân sách Nhà nước.

[9] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Thanh K phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Phạm Thanh K 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17 tháng 3 năm 2022.

2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 của Bộ luật hình sự; các Điều 357; 584 ; 585 và 586 của Bộ Luật dân sự;

Buộc bị cáo Phạm Thanh K có trách nhiệm bồi thường cho ông Nguyễn Trương Công Danh số tiền 24.000.000đ (hai mươi bốn triệu đồng).

Kể từ ngày ông Danh có đơn yêu cầu thi hành án, bị cáo còn phải trả số tiền lãi, tương ứng với thời gian và số tiền chậm trả, theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự, tịch thu bán sung ngân sách Nhà nước 01 điện thoại hiệu Iphone 6 màu vàng 16GB, số IMEI: 355406076740570 (đã qua sử dụng, không kiểm tra chất lượng).

(Theo biên bản giao, nhận tang vật ngày 21/6/2022 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đà Lạt và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đà Lạt).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a và c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án; Buộc bị cáo Phạm Thanh K phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 1.200.000đ (một triệu hai trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo được quyền làm đơn kháng cáo để yêu cầu xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Riêng người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt, có quyền kháng cáo trong thời hạn nêu trên kể từ ngày nhận được hoặc niêm yết bản sao bản án.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

615
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 129/2022/HS-ST

Số hiệu:129/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về