TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH THẠNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 128/2022/HS-ST NGÀY 13/09/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 13 tháng 9 năm 2022, tại phòng xử án Tòa án nhân dân quận B và Phòng xét xử trực tuyến tại Trại tạm giam T30 – Công an Thành phố H, đã xét xử sơ thẩm trực tuyến và tuyên án công khai vụ án hình sự thụ lý số 89/2022/TLST-HS ngày 11 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 181/2022/QĐXXST-HS ngày 26/8/2022, đối với bị cáo:
Phan Trọng H, giới tính: nam; sinh năm: 1978 tại Thành phố H; nơi thường trú: 328/46A PVT, Phường 11, quận B, Thành phố H; nghề nghiệp: thu gom rác; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ học vấn: 10/12; con ông Phan Văn X và bà Võ Kim Y; có vợ tên Thái Thị Lệ U và 01 con sinh năm 2012.
Nhân thân:
- Ngày 19/9/2005, bị Tòa án nhân dân quận Gò Vấp xử phạt 02 năm 6 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo bản án số 207/2005/HSST ngày 19/9/2005, đã chấp hành xong.
- Ngày 05/7/2010, bị Tòa án nhân dân quận B xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 143/2010/HSST, đã chấp hành xong và đóng án phí.
Tiền án, tiền sự: không.
Tạm giữ, tạm giam: 19/4/2022 (có mặt tại phiên tòa) Bị hại: ông Lê Thanh T; sinh năm: 1978; địa chỉ: 33Bis đường số 6, cư xá CVA, Phường 26, quận B, Thành phố H. (vắng mặt)
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1/ Ông Nguyễn Đình A; sinh năm: 1961;
2/ Bà Đoàn Thị Xuân H; sinh năm 1966;
Cùng địa chỉ: 6/1C TS, Phường 17, quận B, Thành phố H.
Đại diện ủy quyền của ông A, bà I: ông Đoàn Xuân L, sinh năm: 1973; địa chỉ: 108/19 TQD, Phường 14, Quận 3, Thành phố Hồ CHí Minh (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Phan Trọng H sử dụng ma túy Heroin từ năm 2004 đến năm 2014 thì không sử dụng nữa mà chuyển sang uống Metadone. Hàng ngày, H đi uống thuốc Metadone tại Trung T y tế Phường 24, quận B và thấy căn nhà số 37-39-41 DBL, phường 24, quận B của ông Nguyễn Đình A và bà Đoàn Thị Xuân I đang bỏ hoang, không có người ở.
Ngày 15/3/2022, do không có tiền đóng tiền thuê nhà nên H nảy sinh ý định lừa đảo bán xác nhà 37-39-41 DBL, phường 24, quận B cho người khác. H điện thoại cho anh Lê Thanh T hỏi bán xác nhà. Anh T đến xem và hỏi H nguồn gốc căn nhà, H nói dối với anh T là H làm bảo vệ của công ty bảo vệ đang quản lý trông coi căn nhà số 37-39-41 DBL, phường 24, quận B, H ra giá bán xác nhà là 30.000.000 đồng, anh T đồng ý mua và yêu cầu H đưa chứng minh nhân dân chụp lại để làm công chứng xin giấy phép tháo dỡ. H cung cấp cho anh T căn cước công dân số 07907800xxxx tên Phan Trọng H, thấy vậy anh T tin tưởng chụp và lưu giữ trong điện thoại di động rồi đi về. Sau đó, H sợ sự việc bị bại lộ nên H gọi lại cho anh T nói phía công ty kêu bán xác nhà giá 40.000.000 đồng thì anh T không đồng ý mua. Đến khoảng gần 10 giờ ngày 07/4/2022, do cần tiền gấp nên H tiếp tục gọi điện thoại cho anh T kêu bán giàn cửa sắt của căn nhà 37-39-41 DBL, phường 24, quận B với giá 6.000.000 đồng, anh T đồng ý mua và tiến hành tháo dỡ. Thấy anh T đang tháo dỡ giàn cửa sắt thì anh Trần Văn S đến thỏa thuận sang lại, anh T sang tay bán lại giàn cửa sắt với giá 9.000.000 đồng, anh S đồng ý và đưa trước anh T số tiền 8.000.000 đồng, còn lại 1.000.000 đồng sẽ đưa sau. Sau khi nhận tiền của anh S, anh T đưa cho H 3.000.000 đồng và hẹn đến chiều cùng ngày sẽ giao phần tiền còn lại. Sau đó, anh S kêu anh Võ Xuân 1, Trần Quốc 2, Lê Văn 3 cùng tháo dỡ giàn cửa sắt định chở đi thì anh Đoàn Xuân L (là người thân của ông Nguyễn Đình A và bà Đoàn Thị Xuân I) phát hiện, báo Công an phường 24, quận B. Công an phường 24 lập hồ sơ chuyển Cơ quan điều tra Công an quận B xử lý theo thẩm quyền.
Ngày 18/4/2022, Phan Trọng H bị mời về trụ sở làm việc và khai nhận hành vi phạm tội như trên.
Vật chứng thu giữ:
- 3.000.000 đồng là tiền gia đình bị cáo Phan Trọng H nộp nhằm khắc phục hậu quả. Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh Lê Thanh T.
- 01 điện thoại Samsung Galaxy J2 Prime màu hồng, có gắn sim 092329xxxx, 056527xxxx (thu giữ của Phan Trọng H).
- 01 điện thoại di động OPPO F9 màu đỏ, có gắn sim số 098447xxxx và 5.000.000 đồng. Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh T.
- 02 xe ba bS đẩy tự chế. Quá trình điều tra Trần Văn S khai 02 xe ba bS đẩy do S tự chế để dùng mya ve chai, xe không giấy tờ nên Cơ quan điều tra đã chuyển cho Đội Cảnh sát giao thông Công an quận B để xử lý hành chính đối với Trần Văn S theo thẩm quyền.
- 01 bình gas, 01 bình oxy, đây là tài sản cá nhân của Trần Văn S nên Cơ quan điều tra đã trả lại cho S.
- 01 cS cửa sắt màu xanh, 01 bộ cửa cuốn màu vàng, 01 bộ cửa kéo màu xanh. Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh Đoàn Xuân Hà là đại diện ủy quyền của ông Nguyễn Đình A và bà Đoàn Thị Xuân I.
Về trách nhiệm dân sự:
- Anh Lê Thanh T đã nhận lại số tiền 3.000.000 đồng nên không yêu cầu gì về dân sự.
- Anh Đoàn Xuân L là đại diện ủy quyền của ông Nguyễn Đình A và bà Đoàn Thị Xuân I đã nhận lại các cửa sắt bị tháo dỡ và không có yêu cầu gì.
Tại bản Cáo trạng số 81/CT-VKSBTh ngày 04 tháng 7 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân quận B đã truy tố bị cáo Phan Trọng H về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên toà, bị cáo Phan Trọng H thừa nhận hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của mình, tỏ ra ăn năn hối cải và xin giảm nhẹ một phần hình phạt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận B thực hành quyền công tố trình bày quan điểm của Viện kiểm sát đối với vụ án, sau khi phân tích tính chất hành vi phạm tội; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo đã giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị mức án đối với bị cáo Phan Trọng H từ 09 tháng đến 01 năm tù. Vật chứng đề nghị Hội đồng xét xử xử lý theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là đúng theo quy định của pháp luật.
Về những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận B, Thành phố H, Điều tra viên, Viện kiểm sát quận B, Thành phố H thu thập và bị cáo cung cấp đều thực hiện đúng quy trình, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về những chứng cứ, tài liệu đã thu thập, cung cấp. Do đó những chứng cứ tài liệu trong vụ án đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:
Tại cơ quan điều tra cũng như qua thẩm tra xét hỏi tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Phan Trọng H đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã nêu, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng, biên bản thu giữ vật chứng, kết luận giám định cùng các chứng cứ khác có trong hồ sơ, cho thấy: khoảng 10 giờ ngày 07/4/2022, Phan Trọng H đã có hành vi gian dối tự nhận mình là bảo vệ công ty đang quản lý, trông coi nhà số 37-39-41 DBL, Phường 24, quận B để anh Lê Thanh T tin tưởng và đồng ý mua lại giàn cửa sắt với giá 6.000.000 đồng. Hành vi nêu trên của Phan Trọng H đã cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được Hiến pháp và pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật nhưng lười lao động và muốn có tiền tiêu xài nên bị cáo đã lừa đảo chiếm đoạt tài sản là số tiền 6.000.000 đồng của bị hại. Đây là lỗi cố ý của bị cáo. Hành vi của bị cáo Phan Trọng H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Xét tại Cơ quan điều tra và phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải nên áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
[4] Về vật chứng:
- 01 điện thoại Samsung Galaxy J2 Prime màu hồng, có gắn sim 092329xxxx, 056527xxxx thu giữ của Phan Trọng H: xét đây là phương tiện phạm tội, cần thiết tịch thu sung công quỹ nhà nước - Đối với các vật chứng còn lại, cơ quan điều tra đã xử lý đúng quy định nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Phan Trọng H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”
- Áp dụng khoản 1 Điều 174, Điều 38, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;
Xử phạt bị cáo Phan Trọng H 01 (một) năm tù.
Thời hạn tù tính từ ngày 19/4/2022.
2. Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
- Tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 điện thoại Samsung Galaxy J2 Prime màu hồng, có gắn sim 092329xxxx, 056527xxxx. (không kiểm tra tình trạng hoạt động) (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/8/2022 giữa Công an quận B và Chi cục Thi hành án dân sự quận B)
3. Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.
Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 128/2022/HS-ST
Số hiệu: | 128/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Bình Thạnh - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 13/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về