TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN DƯƠNG , THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 119/2023/HS-ST NGÀY 21/11/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 21 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện A, thành phố H xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 125/2023/TLST-HS ngày 01 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 112/2023/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:
Nguyễn Văn K, sinh ngày 16 tháng 6 năm 1989, tại H. Nơi cư trú: Khu Q, phường Đ, Quận Dương Kinh, thành phố H; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H và bà Trần Thị M; có vợ La Thị L, chưa có con; tiền án: Tại bản án số: 31/2021/HS-ST ngày 04/03/2021, Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương xử phạt Nguyễn Văn K 02 năm tù về tội “Cướp tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày 02/9/2020, bị cáo chấp hành xong án phạt tù ngày 02/7/2022 (chưa được xóa án tích); tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 31/8/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Nguyễn Văn K về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự; bị bắt tạm giữ ngày 22/8/2023, tạm giam ngày 31/8/2023; có mặt.
- Bị hại: Anh Lê Trọng Đ, sinh năm 1990; địa chỉ: Thôn V, xã A, huyện A, thành phố H; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Do không có tiền tiêu xài nên Nguyễn Văn K nảy sinh ý định đến cửa hàng mua bán xe máy cũ, giả vờ hỏi mua, xong đi thử rồi chiếm đoạt. Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 13/02/2023, K đi bộ đến cửa hàng mua bán xe máy cũ của anh Lê Trọng Đ, sinh năm 1990, ở thôn V, xã A, huyện A, thành phố H, hỏi mua xe mô tô nhãn hiệu Sirius. Cửa hàng không còn xe Sirius nên anh Đ giới thiệu cho K xem chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Gravita, màu đỏ đen, BKS 15K1 - xxxx. K hỏi giá, anh Đ báo 13.000.000 đồng. K giả vờ đồng ý và bảo anh Đ cho đi thử. Anh Đ đồng ý và điều khiển xe BKS 15K1 - xxxx chở K đi thử xe trên đường Máng nước rồi quay lại cửa hàng. Anh Đ dừng xe ở trên vỉa hè trước cửa hàng. Lúc này, K nổ máy, kéo ga, bấm còi, thử các loại đèn của xe để tạo niềm tin cho anh Đ rằng K muốn mua xe. Sau đó, K nói anh Đ cho K cho đi thử xe một mình, anh Đ đồng ý, yêu cầu K đi gần đó. Lần thứ nhất, K điều khiển xe mô tô BKS 15K1 - xxxx đi trên vỉa hè cách cửa hàng khoảng hơn 10 mét thì quay lại. Lần thứ hai, K điều khiển xe đi trên đường Máng nước cách cửa quán hơn 20m thì quay lại, mục đích để anh Đ không nghi ngờ gì. Tuy nhiên, đến lần thứ ba, K đã tăng ga điều khiển xe mô tô BKS 15K1 - xxxx về phía chợ Vĩnh Khê, xã A, theo hướng đi Nguyễn Văn Linh bỏ chạy. Khi đến khu vực cầu vượt đường Nguyễn Văn Linh, phường Hồ Sen, Quận Lê Chân, H, K đã bán chiếc xe trên cho 01 đối tượng nam giới (chưa rõ nhân thân, lai lịch) với giá 4.000.000 đồng và bỏ trốn. Cùng ngày, anh Lê Trọng Đ đã trình báo nội dung vụ việc đến Công an xã A, huyện A, thành phố H.
Khoảng 00 giờ 15 phút ngày 27/02/2023, tổ công tác Công an phường Đ, Quận Ngô Quyền, thành phố H tiến hành tuần tra kiểm soát trên địa bàn phường, phát hiện một nam giới không đội mũ bảo hiểm, điều khiển xe môtô nhãn hiệu Yamaha Jupiter, màu đỏ đen, không có biển kiểm soát có biểu hiện nghi vấn đã yêu cầu dừng phương tiện để kiểm tra thì đối tượng để lại xe và bỏ chạy. Qua xác minh, xác định chủ sở hữu chiếc xe trên là anh Lê Trọng Đ bị chiếm đoạt ngày 13/02/2023 nên Công an phường Đ đã bàn giao cho Công an huyện A để giải quyết.
Tại Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 18/KL-HĐĐG ngày 23/3/2023 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện A kết luận:
Xe mô tô Nguyễn Văn K chiếm đoạt của anh Lê Trọng Đ có giá trị 7.200.000 đồng.
Ngày 21/8/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh tiếp nhận người phạm tội ra đầu thú, đối với Nguyễn Văn K về hành vi trộm cắp tài sản xảy ra tại tổ 9 khu 3, phường Hùng Thắng, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh vào ngày 11 và ngày 14/8/2023, đồng thời tạm giữ hình sự đối với K về hành vi trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Quá trình điều tra, Nguyễn Văn K khai nhận toàn bộ nội dung sự việc như đã nêu trên .
Bản Cáo trạng số 127/CT-VKS-AD ngày 31/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện A, thành phố H truy tố bị cáo Nguyễn Văn K về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn K khai nhận như nội dung bản Cáo trạng truy tố đã nêu, hành vi của bị cáo vi phạm pháp luật việc điều tra, truy tố, xét xử bị cáo là đúng, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo .
Sau phần xét hỏi công khai tại phiên toà, Đ diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội đối với bị cáo . Qua phân tích hành vi phạm tội, đánh giá tính chất vụ án, nêu các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, giữ nguyên quan điểm truy tố đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Căn cứ khoản 1 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Văn K từ 18 tháng đến 24 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:
- Về tố tụng:
[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện A, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện A, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
- Về chứng cứ xác định có tội, tội danh và tình tiết định khung hình phạt:
[2] Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, biên bản thu giữ vật chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án có đủ căn cứ kết luận: Ngày 13/02/2023, tại khu vực đường Máng nước, thôn V, xã A, huyện A, thành phố H, Nguyễn Văn K dùng thủ đoạn gian dối, chiếm đoạt chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Graita, BKS 15K1 - xxxx của anh Lê Trọng Đ. Theo Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 18/KL-HĐĐG ngày 23/3/2023 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện A kết luận: Xe mô tô Nguyễn Văn K chiếm đoạt của anh Lê Trọng Đ có giá trị 7.200.000đồng. Hành vi phạm tội của Nguyễn Văn K đã vi phạm khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện A, thành phố H truy tố bị cáo về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là có căn cứ.
- Về tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, làm mất an ninh trật tự xã hội, gây dư luận xấu ở địa phương. Tại thời điểm bị cáo thực hiện hành vi phạm tội bị cáo là ngưởi có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, phạm tội với lỗi cố ý, nên cần xử phạt một mức án cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tài liệu hồ sơ thể hiện tại Bản án số 31/2021/HS-ST ngày 04/3/2021, Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương xử phạt Nguyễn Văn K 02 năm tù về tội Cướp tài sản, đến ngày 02/7/2022 bị cáo chấp hành xong hình phạt tù. Tính đến ngày phạm tội lần này bị cáo chưa được xóa án tích. Do vậy, bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Về nhân thân: Ngày 31/8/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Nguyễn Văn K về tội Trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Do vậy, bị cáo là người có nhân thân xấu.
- Về hình phạt bổ sung:
[6] Theo quy định tại khoản 5 Điều 174 Bộ luật Hình sự bị cáo có thể bị phạt tiền từ 10.000.000đồng đến 100.000.000đồng. Xét tính chất, mức độ tội phạm của bị cáo, bản thân bị cáo không có việc làm ổn định nên miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
- Về xử lý vật chứng, trách nhiệm dân sự và các vấn đề khác:
[7] Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện A đã trả lại chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha màu đỏ đen cho anh Lê Trọng Đ là chủ sở hữu hợp pháp quản lý theo quy định. Anh Đ không có yêu cầu đề nghị gì thêm nên không còn gì phải xét.
[8] Đối với đối tượng nam giới đã mua xe của Nguyễn Văn K, hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, làm rõ, xử lý sau [9] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn K 21 (hai mươi mốt) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn tù của bị cáo được tính từ ngày 22 tháng 8 năm 2023. Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo Nguyễn Văn K Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 6, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội ban hành ngày 30/12/2016 buộc bị cáo Nguyễn Văn K phải nộp 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách Nhà nước.
Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 119/2023/HS-ST
Số hiệu: | 119/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện An Dương - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/11/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về