TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG ĐIỀN, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU
BẢN ÁN 117/2021/HS-ST NGÀY 14/10/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Trong ngày 14 tháng 10 năm 2021 tại Tòa án nhân dân huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 91/2021/TLST-HS ngày 11 tháng 6 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 112/2021/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 7 năm 2021, Thông báo mở lại phiên tòa số 12/TB-TA ngày 24 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:
Nguyễn Hồng S (tên gọi khác: Tèo Trình), sinh năm 1996 tại tỉnh Nam Định. Hộ khẩu thường trú: P, xã P, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; Chỗ ở: Ấp P, xã P, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; Giới tính: Nam; Trình độ học vấn: Lớp 5/12; Nghề nghiệp: Không; Cha là Nguyễn Văn T (đã chết), mẹ là Nguyễn Thị T; Bị cáo là con thứ 3 trong gia đình có 5 anh chị em; Vợ, con: Chưa có.
Tiền án:
+ Bản án số 67/2013/HSST ngày 18/9/2013 của Tòa án nhân dân huyện Long Điền xử phạt Nguyễn Hồng S 10 tháng tù, về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.
+ Bản án số 93/2013/HSST ngày 24/12/2013 của Tòa án nhân dân huyện Long Điền xử phạt Nguyễn Hồng S 08 tháng tù, về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Tổng hợp hình phạt 10 tháng tù của Bản án số 67/2013/HSST ngày 18/9/2013 của Tòa án nhân dân huyện Long Điền. Buộc S phải chấp hành hình phạt chung là 18 tháng tù. S chấp hành xong hình phạt tù ngày 30/01/2015.
+ Bản án số 08/2016/HSST ngày 22/01/2016 của Tòa án nhân dân huyện Long Điền xử phạt Nguyễn Hồng S 03 năm tù, về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. S chấp hành xong hình phạt tù ngày 19/12/2017.
+ Bản án số 29/2019/HSST ngày 24/4/2019 của Tòa án nhân dân huyện Long Điền xử phạt Nguyễn Hồng S 14 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và 12 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tổng hợp hình phạt chung cả hai tội, S phải chấp hành hình phạt 26 tháng tù. S chấp hành xong hình phạt tù ngày 21/12/2020.
Tiền sự: Không.
Nhân thân:
+ Bản án số 144/2012/HSST ngày 03/8/2012 của Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu xử phạt Nguyễn Hồng S 18 tháng tù, về tội “Cướp tài sản”. S chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/01/2013.
+ Bản án số 40/2021/HSST ngày 29/4/2021 của Tòa án nhân dân huyện Long Điền xử phạt Nguyễn Hồng S 05 năm tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 07/3/2021.
Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 07/3/2021, hiện đang chấp hành hình phạt tù của Bản án số 40/2021/HSST ngày 29/4/2021 của Tòa án nhân dân huyện Long Điền, có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Anh Huỳnh Phúc L, sinh ngày 02/3/2003, vắng mặt.
Địa chỉ: Ấp B, xã H, thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Văn Th, sinh năm 1982, vắng mặt.
Địa chỉ: Khu phố H, thị trấn L, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Chỗ ở hiện nay: Cơ sở Tư vấn và Điều trị nghiện ma túy tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (do bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào Cơ sở cai nghiện bắt buộc).
- Người làm chứng: Chị Nguyễn Thị A, sinh năm 2002, vắng mặt.
Địa chỉ: Ấp Phước L, xã P, huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Hồng S và Nguyễn Thị Hoa Mai sinh sống với nhau như vợ chồng tại nhà S thuộc ấp Phước L, xã Phước Hưng, huyện Long Điền. Sau đó, gia đình S không đồng ý cho Mai sống cùng với gia đình S nữa nên S và Mai bỏ đi và đến ở nhờ nhà những người anh của S.
Ngày 10/01/2021, anh Huỳnh Phúc L là bạn trai của chị Nguyễn Thị Ánh (em gái ruột của S) điều khiển xe mô tô biển số 72E1-230.11 đến nhà S chơi và ngủ lại tại nhà gia đình S. Thấy vậy, S hỏi mượn chiếc xe mô tô của L (do trước đây S từng mượn xe của L khi L đến chơi), Ánh biết được nên can ngăn L không cho S mượn xe. Để có được xe mô tô của L, vào khoảng 04 giờ ngày 11/01/2021, khi L đang ngủ, S gọi L dậy và nhờ L chở S đến quán Cây Nhãn thuộc khu phố Hải An, thị trấn Long Hải, huyện Long Điền để S đi đám cưới. L đồng ý và điều khiển xe mô tô biển số 72E1-230.11 chở S và Ánh cùng đi. Đến nơi, S nói lý do đi đón bạn và cần liên lạc với bạn nên S hỏi mượn chiếc xe mô tô và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F11 Pro, dung lượng 128Gb của L. L đồng ý và giao xe cùng điện thoại cho S rồi L và Ánh đứng chờ. Sau khi mượn được xe và điện thoại, S điều khiển xe mô tô đến khu phố Hải Phong 1, thị trấn Long Hải, huyện Long Điền để đón Mai mà không quay lại trả xe và điện thoại cho L. Khoảng 02 ngày sau, để có tiền trả tiền phòng và tiêu xài cá nhân, S và Mai đã đem chiếc xe của anh L cầm cho Nguyễn Văn Th với số tiền 7.000.000đ (khi cầm xe S nói là xe của S, giấy tờ xe mẹ S đang giữ và cam kết không phải xe trộm cắp nên Th mới nhận cầm), còn chiếc điện thoại di động S đưa cho Mai sử dụng. Đến ngày 16/01/2021, Mai đem chiếc điện thoại di động trên đi bán được số tiền 1.000.000đ. Tất cả số tiền trên, S và Mai đã tiêu xài hết.
Anh L và chị Ánh đứng chờ S quay về trả lại xe nhưng không thấy nên ngày 15/01/2021 anh L đã đến cơ quan công an trình báo vụ việc.
Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Long Điền, Nguyễn Hồng S đã khai nhận toàn bộ hành vi như đã nêu trên.
Đối với Nguyễn Văn Th, sau khi nhận cầm xe của S, Th đã đem xe đi dán lại màu khác và đã làm mất biển số xe 72E1-230.11 nên Th đã lấy biển số xe 67L9- 2674 gắn vào để sử dụng. Ngày 21/01/2021, cơ quan công an kiểm tra nhà Th phát hiện chiếc xe mô tô trên không có giấy tờ nên đã thu giữ.
Vật chứng gồm:
- 01 xe mô tô không còn biển số, đã trao trả lại cho anh Huỳnh Phúc L là chủ sơ hữu.
- 01 điện thoại di động, nhãn hiệu OPPO F11 Pro, dung lượng 128Gb, màu xanh, hiện không thu hồi được.
- 01 biển số xe mô tô 67L9-2674, Cơ quan điều tra đã tiến hành tiêu hủy.
Tại Kết luận định giá tài sản số 08/KL-HĐĐGTS ngày 04/02/2021 của Hội đồng định giá tài sản huyện Long Điền kết luận:
- 01 xe máy biển số 72E1-230.11, nhãn hiệu Yamaha, số loại Exciter, dung tích: 135, màu trắng xám, đã qua sử dụng, trị giá 12.000.000đ.
- 01 điện thoại di động, nhãn hiệu OPPO F11 Pro, dung lượng 128Gb, màu xanh, đã qua sử dụng trị giá 4.500.000đ.
Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 16.500.000đ.
Về trách nhiệm dân sự: Anh Huỳnh Phúc L đã nhận lại xe mô tô và không có yêu cầu gì thêm. Đối với chiếc điện thoại di động không thu hồi được, anh L không yêu cầu bồi thường.
1. Tại Cáo trạng số 94/CT-VKSLĐ ngày 10/6/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Điền đã truy tố Nguyễn Hồng S tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm d Khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự.
Đối với Nguyễn Thị Hoa Mai, qua xác minh không có mặt ở địa phương nên chưa làm việc được, Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau.
Đối với Nguyễn Văn Th không biết chiếc xe mô tô trên là do Nguyễn Hồng S chiếm đoạt của người khác nên mới nhận cầm. Do đó, không có cơ sở để xử lý đối với Th về hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.
2. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Điền giữ nguyên quan điểm truy tố đối với S đúng theo nội dung bản cáo trạng số 94/CT- VKSLĐ ngày 10/6/2021. Sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm, hậu quả do hành vi phạm tội của S gây ra, nêu lên tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã đề nghị Hội đồng xét xử:
- Tuyên bố: Nguyễn Hồng S phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
- Áp dụng: Điểm d Khoản 2 Điều 174; điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Nguyễn Hồng S từ 3 năm đến 4 năm tù.
3. Phần tranh luận: S không thừa nhận hành vi phạm tội.
4. Lời nói sau cùng của S: "Bị cáo không có tội".
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Long Điền, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Điền, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
[2] Tại phiên tòa, Nguyễn Hồng S thừa nhận hành vi của mình như sau: Vào khoảng 4 giờ ngày 11/01/2021, khi L đang ngủ tại nhà S, S gọi L dậy và nhờ L chở S đến quán Cây Nhãn thuộc khu phố Hải An, thị trấn Long Hải, huyện Long Điền để S đi đám cưới. L đồng ý và điều khiển xe mô tô biển số 72E1-230.11 chở S và Ánh cùng đi. Đến nơi, S nói lý do đi đón bạn và cần liên lạc với bạn nên S hỏi mượn xe mô tô và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F11 Pro của L. L đồng ý và giao xe cùng điện thoại cho S rồi L và Ánh đứng chờ. Sau khi mượn được xe và điện thoại, S điều khiển xe mô tô đến khu phố Hải Phong 1, thị trấn Long Hải, huyện Long Điền để đón Mai mà không quay lại trả xe và điện thoại cho L. Tuy nhiên S không thừa nhận hành vi phạm tội của mình.
Xét lời khai của S tại phiên tòa phù hợp với lời khai của S tại Cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, người làm chứng, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của mình. Hành vi của S là cố ý, nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến khách thể được luật hình sự bảo vệ là quyền sở hữu tài sản của công dân. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực để chịu trách nhiệm hình sự về hành vi “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” của mình.
Xét theo Bản án số 29/2019/HSST ngày 24/4/2019 của Tòa án nhân dân huyện Long Điền, S bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm theo điểm h Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý trong vụ án này nên thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm theo điểm b Khoản 2 Điều 53 Bộ luật Hình sự.
Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định hành vi của S đã phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm d Khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự là "Tái phạm nguy hiểm". Như vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Điền truy tố đối với S là đúng người, đúng tội, phù hợp với quy định của pháp luật.
[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, S thành khẩn khai báo. Do đó, S được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
4 tiền án nêu trên của S đã được sử dụng là dấu hiệu định khung hình phạt nên không được coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[4] Căn cứ vào hành vi phạm tội, nhân thân của S và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xét thấy: Cần xử phạt S hình phạt tù tương xứng với tính chất và mức độ của hành vi phạm tội nhằm giáo dục, cải tạo S và đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung.
[5] Về tổng hợp hình phạt: S đang chấp hành hình phạt tù của Bản án số 40/2021/HSST ngày 29/4/2021 của Tòa án nhân dân huyện Long Điền nên tổng hợp hình phạt của bản án nêu trên với hình phạt của bản án này.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Anh Huỳnh Phúc L đã nhận lại xe mô tô và không có yêu cầu gì thêm. Đối với chiếc điện thoại di động không thu hồi được, anh L không yêu cầu bồi thường. Nên Hội đồng xét xử không xét đến.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Nguyễn Hồng S phạm tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
- Áp dụng: Điểm d Khoản 2 Điều 174; điểm s Khoản 1 Điều 51; Điều 38 và Điều 56 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Nguyễn Hồng S 3 (ba) năm, 6 (sáu) tháng tù.
Tổng hợp với hình phạt 5 (năm) năm tù tại Bản án số 40/2021/HSST ngày 29/4/2021 của Tòa án nhân dân huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Nguyễn Hồng S phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 8 (tám) năm, 6 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 07/3/2021.
- Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH-14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội. Buộc Nguyễn Hồng S nộp 200.000đồng.
- Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 14/10/2021). Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.
Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 117/2021/HS-ST
Số hiệu: | 117/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Long Điền - Bà Rịa - Vũng Tàu |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/10/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về