Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 110/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẢO L, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 110/2023/HS-ST NGÀY 26/12/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 12 năm 2023, tại Hội trường Tòa án nhân dân huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 105/2023/TLST-HS ngày 23/11/2023 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 97/2023/QĐXXST-HS ngày 14/12/2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn Đ; Sinh năm: 1991 tại Kiên Giang;

NKTT và chỗ ở: Thôn 2, xã L, huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 02/12;

Con ông: Nguyễn Văn Thái, sinh năm 1963; Con bà Nguyễn Thị Nuôi, sinh năm 1963. Hiện thường trú tại xã Thạnh Bình, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.

Vợ: Ka Úk, sinh năm 1991, hiện trú tại thôn 2, xã L, huyện Bảo Lâm; có 04 con, lớn nhất sinh năm 2011, nhỏ nhất sinh năm 2019;Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 11/8/2023 cho đến nay tại Nhà tạm giữ Công an huyện Bảo Lâm (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

* Bị hại: Anh K’ T, sinh năm: 1986 và chị Ka T, sinh năm: 1990 Địa chỉ: Thôn 2, xã L, huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng ( Có mặt )

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Ka U, sinh năm: 1991 Địa chỉ: Thôn 2, xã L, huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng ( Có mặt ).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Anh K’Tuyên sở hữu thửa đất số 237, tờ bản đồ số 72, diện tích 1806,3 m2 thuộc thôn 2, xã L, huyện Bảo Lâm, đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tuy nhiên quá trình sử dụng đã bị thất lạc. Tháng 01/2021, anh K’Tuyên thỏa thuận chuyển nhượng thửa đất trên cho bà Nguyễn Thu Anh với giá 420.000.000 đồng, đặt cọc số tiền 120.000.000 đồng và thỏa thuận khi nào anh K’Tuyên làm xong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sẽ tiếp tục thực hiện hợp đồng.

Trong khoảng thời gian này, Nguyễn Văn Độ biết việc anh K’Tuyên đang cần làm nhanh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và thấy trên các trang mạng xã hội facebook có rao quảng cáo làm các giấy tờ giả nên nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản của anh K’Tuyên. Nguyễn Văn Độ nói với anh K’Tuyên mình có quen biết người có thể làm nhanh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, do tin tưởng Độ nên anh K’Tuyên nhờ Độ làm giúp mình. Độ lên mạng xã hội trao đổi về việc làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả, thỏa thuận giá làm là 7.000.000 đồng, ứng trước 2.000.000 đồng. Sau đó, Độ nói với anh K’Tuyên có người nhận dịch vụ làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhanh với giá 16.000.000 đồng, ứng trước 2.000.000 đồng thì anh K’Tuyên đồng ý. Anh K’Tuyên và vợ là chị K’Trang cùng Độ đến cửa hàng điện thoại di động Giang Nguyễn ở 39 Phan Chu Trinh, phường Lộc Tiến, Tp. Bảo Lộc nhờ chuyển khoản vào tài khoản của người làm giả giấy tờ số tiền 2.000.000 đồng. Sau đó, anh K’Tuyên đến UBND xã L xin trích lục bản đồ thửa đất, Độ chụp hình lại trích lục bản đồ và chứng minh nhân dân của anh K'Tuyên rồi gửi cho người nhận làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả.

Ngày 02/02/2021, có người giao hàng liên hệ với Độ để giao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, do đang ở tại Kiên Giang nên Độ yêu cầu người giao hàng liên hệ với Ka Úk (vợ của Độ) để giao hàng. Sau đó, Độ yêu cầu Ka Úk dẫn nhân viên giao hàng đến nhà anh K’Tuyên giao gói hàng, bên trong có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CV 031155. Sau khi nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, vợ chồng anh K’Tuyên đã đưa cho người giao hàng 5.000.000 đồng và đưa cho Ka Úk số tiền 9.000.000 đồng theo yêu cầu của Độ. Đến ngày 08/02/2021, vợ chồng anh K’Tuyên đưa giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nói trên đến Văn phòng công chứng Lê Thị Nụ tại Tp. Bảo Lộc để công chứng hợp đồng chuyển nhượng với bà Nguyễn Thu Anh thì Công chứng viên nghi ngờ, trình báo Cơ quan Công an. Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Văn Độ thừa nhận hành vi phạm tội.

Tại Kết luận giám định số 451/GĐ-PC09 ngày 31/5/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng kết luận: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác - gắn liền với đất, số CV 031155 là giả.

Tại phiên tòa: Bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng, không thắc mắc, không khiếu nại hay tranh luận gì.

Người bị hại đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Cáo trạng 109/CT-VKSBL ngày 22/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Lâm, tỉnh Lâm Đồng truy tố bị cáo Nguyễn Văn Độ về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản ” và tội “ Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức ” theo khoản 1 Điều 174, khoản 1 Điều 341 Bộ luật hình sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 174, điểm b, i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Độ từ 09 đến 12 tháng tù.

Áp dụng khoản 1 Điều 341, điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Độ từ 06 đến 09 tháng tù.

Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo Nguyễn Văn Độ phải chấp hành hình phạt chung của hai tội từ 15 đến 21 tháng tù - Về hình phạt bổ sung: Phạt bổ sung bị cáo Độ từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng - Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Độ đã bồi thường cho anh K’Tuyên và chị Ka Trang số tiền 16.000.000 đồng. Anh K’Tuyên chị Ka Trang không yêu cầu gì thêm về phần dân sự nên không đề cập đến.

Về xử lý vật chứng: Lưu theo hồ sơ vụ án 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác - gắn liền với đất, số CV 031155, được giám định là giả; 01 bìa giấy cát tông; 01 bì thư Viettel Post.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[01] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bảo Lâm, của Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Lâm, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa không ai có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[02] Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của người bị hại, phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã có cơ sở xác định:

Bị cáo Nguyễn Văn Độ biết việc anh K’Tuyên đang cần làm nhanh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và thấy trên các trang mạng xã hội facebook có rao quảng cáo làm các giấy tờ giả nên nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản của anh K’Tuyên. Nên bị cáo Độ nói với anh K’Tuyên mình có quen biết người có thể làm nhanh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, do tin tưởng Độ nên anh K’Tuyên nhờ Độ làm giúp mình. Bị cáo Độ lên mạng xã hội trao đổi về việc làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả, thỏa thuận giá làm là 7.000.000 đồng, ứng trước 2.000.000 đồng. Sau đó, bị cáo Độ nói với anh K’Tuyên có người nhận dịch vụ làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhanh với giá 16.000.000 đồng, ứng trước 2.000.000 đồng thì anh K’Tuyên đồng ý. Anh K’Tuyên và vợ là chị K’Trang chuyển khoản vào tài khoản của người làm giả giấy tờ số tiền 2.000.000 đồng. Sau đó, anh K’Tuyên đến UBND xã L xin trích lục bản đồ thửa đất, bị cáo Độ chụp hình lại trích lục bản đồ và chứng minh nhân dân của anh K'Tuyên rồi gửi cho người nhận làm giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả.

Ngày 02/02/2021, có người giao hàng liên hệ với bị cáo Độ để giao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, do đang ở tại Kiên Giang nên bị cáo Độ yêu cầu người giao hàng liên hệ với Ka Úk (vợ của bị cáo Độ) để giao hàng. Sau đó, bị cáo Độ yêu cầu Ka Úk dẫn nhân viên giao hàng đến nhà anh K’Tuyên giao gói hàng, bên trong có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CV 031155. Sau khi nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, vợ chồng anh K’Tuyên đã đưa cho người giao hàng 5.000.000 đồng và đưa cho Ka Úk số tiền 9.000.000 đồng theo yêu cầu của bị cáo Độ. Đến ngày 08/02/2021, vợ chồng anh K’Tuyên đưa giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nói trên đến Văn phòng công chứng Lê Thị Nụ tại Tp. Bảo Lộc để công chứng hợp đồng chuyển nhượng với bà Nguyễn Thu Anh thì Công chứng viên nghi ngờ, trình báo Cơ quan Công an.

Tại Kết luận giám định số 451/GĐ-PC09 ngày 31/5/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng kết luận: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác - gắn liền với đất, số CV 031155 là giả.

Như vậy, bị cáo Nguyễn Văn Độ đã có hành vi làm giả Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác - gắn liền với đất, số CV 031155 đứng tên K’Tuyên, làm anh K’Tuyên tin tưởng đây là giấy tờ thật để chiếm đoạt của anh K’Tuyên số tiền 16.000.000 đồng nên hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản ” và tội “ Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức ” theo khoản 1 Điều 174 và khoản 1 Điều 341 Bộ luật hình sự như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Lâm truy tố là hoàn toàn có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[03] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu đối với tài sản của người bị hại, đến hoạt động của cơ quan, tổ chức trong lĩnh vực quản lý hành chính, xâm phạm trật tự an toàn xã hội tại địa phương, gây hoang mang, lo lắng cho quần chúng nhân dân. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật và sẽ bị xử lý nghiêm nhưng vẫn cố tình vi phạm, do vậy cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian đủ để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[04] Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đã bồi thường thiệt hại cho người bị hại, người bị hại bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, do đó cần áp dụng điểm b, i, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[05] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[06] Về hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[07] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Độ đã bồi thường cho anh K’Tuyên và chị Ka Trang số tiền 16.000.000 đồng. Anh K’Tuyên chị Ka Trang không yêu cầu gì thêm về phần dân sự nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.

[08] Về xử lý vật chứng: Lưu theo hồ sơ vụ án 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác - gắn liền với đất, số CV 031155, được giám định là giả; 01 bìa giấy cát tông; 01 bì thư Viettel Post.

[09] Xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bảo Lâm thấy rằng: Mức hình phạt đề nghị áp dụng đối với bị cáo là phù hợp với nhân thân và tính chất mức độ của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra.

[10] Các vấn đề khác: Trong vụ án, đối tượng làm giả Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác - gắn liền với đất, số CV 031155 cho bị cáo Độ có dấu hiệu của tội Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức nhưng chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên tách ra xử lý sau. Anh K’Tuyên, chị Ka Trang sử dụng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác - gắn liền với đất, số CV 031155 giả tuy nhiên nhận thức đây là thật do bị Nguyễn Văn Độ lừa dối nên không xử lý hình sự đối với anh K’Tuyên và chị Ka Trang. Chị Ka Úk có hành vi dẫn người giao hàng đến giao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác - gắn liền với đất, số CV 031155 giả theo yêu cầu của bị cáo Độ và nhận số tiền 9.000.000 đồng tuy nhiên không biết là giao giấy tờ giả nên không xử lý trách nhiệm hình sự đối với Ka Úk.

[11] Về án phí, lệ phí Tòa án: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án cần buộc bị cáo Độ phải chịu 200.000 đồng án phí HSST.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Đ phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản ” và tội “ Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức ” Áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm b, i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ 09 ( Chín ) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản ”.

Áp dụng khoản 1 Điều 341; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ 09 ( Chín ) tháng tù về tội “ Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức ”.

Áp dụng Điều 55 Bộ luật hình sự. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo Nguyễn Văn Độ phải chấp hành hình phạt chung của hai tội là 18 ( Mười tám ) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 11/8/2023.

2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 47 Bộ luật hình sự: Lưu theo hồ sơ vụ án 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác - gắn liền với đất, số CV 031155, được giám định là giả;

01 bìa giấy cát tông; 01 bì thư Viettel Post.

3. Về án phí, lệ phí Tòa án: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Văn Độ phải nộp 200.000đ án phí HSST.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày 26/12/2023 để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

(Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chỉ được kháng cáo phần có liên quan). 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

34
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 110/2023/HS-ST

Số hiệu:110/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bảo Lâm - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:26/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về