Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 109/2024/HS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 109/2024/HS-PT NGÀY 25/01/2024 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 1376/2023/TLHS-PT ngày 21 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo Nguyễn Huy H và đồng phạm, do có kháng cáo của các bị cáo và bị hại đối với Bản án số 480/2023/HS-ST ngày 26-9- 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.

- Các bị cáo có kháng cáo và bị kháng cáo:

1. Nguyễn Huy H sinh năm 1995 tại N; giới tính: Nam; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: thôn B, xã H, huyện N, tỉnh Nam Định; chỗ ở: khu phố T thị trấn H, huyện Y, tỉnh Hòa Bình; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên Chúa; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 5/12; con ông Nguyễn Văn L và bà Nguyễn Thị Thanh H; có vợ là Bùi Thị D và 01 con; tiền án, tiền sự: không; bị tạm giam ngày 15/7/2022; có mặt.

2. Trần Mạnh H2 sinh năm năm 1989 tại Hòa Bình; giới tính: Nam; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: khu T, thị trấn H, huyện Y, tỉnh Hòa Bình; chỗ ở: khu T, thị trấn H, huyện Y, tỉnh Hòa Bình; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 7/12; con ông Trần Ngọc T (đã chết) và bà Nguyễn Thị N; có vợ là Bùi Thị A và 01 con; tiền án: ngày 24/10/2019, bị Tòa án nhân dân huyện Yên Thủy, tỉnh Hòa Bình xử phạt 15 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 11/5/2020; tiền sự: không; bị bắt giam ngày 18/02/2023; có mặt.

3. Trần Trung K sinh năm 2002 tại Hòa Bình; giới tính: Nam; nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở: khu phố C, thị trấn H, huyện Y, tỉnh Hòa Bình; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; con ông Trần Văn T và bà Tạ Thị T; tiền án, tiền sự: không; bị tạm giam ngày 07/10/2022; có mặt.

- Người bào chữa cho các bị cáo: Luật sư Nguyễn Văn D, Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội; có mặt.

- Bị hại: bà Trịnh Thị T sinh năm 1963; trú tại: nhà số xxx, tổ yy phố H, phường B, thành phố V, tỉnh Phú Thọ; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Ngày 07/4/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Hà Đông, thành phố Hà Nội nhận được đơn tố giác của bà Trịnh Thị T, tố giác Nguyễn Huy H, Trần Mạnh H2 và Trần Trung K có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản thông qua việc mua bán hoa lan đột biến. Quá trình điều tra xác định được:

Khoảng cuối năm 2020, khi thấy thị trường đang sốt mua bán “Hoa lan đột biến”, buôn bán có lãi rất cao, Trần Mạnh H2 và Nguyễn Huy H nảy sinh ý định lừa đảo chiếm đoạt tiền của khách chơi lan bằng thủ đoạn mua các loại cây hoa lan thường với giá rẻ sau đó giới thiệu cho khách mua là hoa lan đột biến (gọi tắt là hoa lan) để bán với giá cao nhằm chiếm đoạt tiền của khách. H và H2 chung nhau mua một số giò lan thường đem về mở “Vườn lan Hà Thành” (địa chỉ: nhà số x, xóm y, tổ z đường Đ, phường Phú Lương, Hà Đông, Hà Nội) sau đó sử dụng tài khoản facebook “Hoa lan Huyền H” đăng quảng cáo về việc bán hoa lan đột biến. Đồng thời, H2 và H liên hệ với Trần Trung K là chủ vườn lan Trung K; địa chỉ: Ngõ x H, phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội là vườn lan chuyên mua bán lan đột biến để K đứng ra đảm bảo nguồn gốc các cây hoa lan mà H2 và H bán là lan đột biến. K chụp ảnh cùng với H2 và H tại vườn lan Trung K, thể hiện H2 và H có giao dịch mua bán hoa lan đột biến với K rồi H sử dụng hình ảnh đăng quảng cáo trên mạng xã hội facebook quảng cáo bán hoa lan đột biến. Ngoài ra, K còn đưa cho H2 và H một số kẹp nhựa có thông tin tên “Vườn lan Trung K”, số điện thoại 039.239.xxxx của K; địa chỉ: ngõ x H, Hà Nội để H2 và H gắn vào các cây hoa lan của H2 và H. Ngoài ra, H2 và H còn thỏa thuận với K, khi nào có người mua hoa lan của H2 và H gọi điện hỏi về nguồn gốc hoa lan thì K xác nhận đó là lan đột biến có nguồn gốc từ Vườn lan Trung K, nếu bán được hoa lan cho khách H2 và H sẽ trả hoa H2 cho K.

Ngày 20/02/2021, thông qua mạng xã hội facebook, bà Trịnh Thị T được Nguyễn Huy H và Trần Mạnh H2 giới thiệu về vườn lan Hà Thành chuyên kinh doanh lan đột biến giống chuẩn, có nguồn gốc rõ ràng, có cam kết bảo hành, nếu không đúng lan đột biến giống chuẩn sẽ được đổi lại cây hoặc đền tiền theo giá thị trường. Ngày 22/02/2021, tại vườn lan Hà Thành, sau khi thỏa Tận mua hoa lan đột biến của H2 và H, Bà T đã mua 15 kie hoa lan với tổng giá trị là 1.936.000.000 đồng và thanh toán bằng cách chuyển khoản đến tài khoản của H số 190019X6789 mở tại Ngân hàng TMCP quân đội (MBbank). Nguyễn Huy H đã viết cho bà T 01 giấy biên nhận và 01 Giấy bảo hành đều đề ngày 22/02/2021 với nội dung: bà T mua của H: 3 kie Minh Châu giá 603.000.000 đồng; 02 kie H2 Á Hậu giá 870.000.000 đồng; 04 kie hồng Yên Thủy giá 272.000.000 đồng, tổng cộng 1.738.000.000 đồng (H giảm giá cho bà T 7.000.000 đồng); Trần Mạnh H2 viết cho bà T 01 giấy biên nhận và 01 Giấy bảo hành đề ngày 22/02/2021 với nội dung: bà T mua của H2: 06 kie hồng giá 198.000.000 đồng. Sau khi mua số kie hoa lan của H2 và H, Bà T mang về nhà được khoảng 3, 4 ngày thì nghi ngờ các cây hoa lan này không phải là hoa lan đột biến nên gọi điện cho H2 và H yêu cầu đổi cây khác hoặc trả lại tiền thì H2, H lấy nhiều lý do khất lần không gặp bà T. Bà T có liên hệ với K theo số điện thoại trên kẹp nhựa “Vườn lan Trung K” gắn trên hoa lan mua ở trên thì K xác nhận với bà T về nguồn gốc lan H2 và H bán là lan đột biến nguồn gốc từ vườn lan Trung K. Bà T tìm đến vườn lan Hà Thành thì H2, H đã T dọn đồ đạc khỏi vườn lan Hà Thành nên đã trình báo đến cơ quan Công an. Cơ quan điều tra đã triệu tập, làm việc được với Nguyễn Huy H và Trần Trung K còn Trần Mạnh H2 trốn truy nã đến ngày 15/10/2022 thì đầu thú. Đối với số tiền 1.936.000.000 đồng chiếm đoạt của bà Trịnh Thị T, H đã chia cho H2 900.000.000đ (bằng tiền mặt 170.000.000đ và chuyển khoản 730.000.000đ đến tài khoản số 70011115xxx mang tên Trần Mạnh H2 mở tại Ngân hàng Mbbank); H trả cho K 40.000.000 đồng tiền hoa H2 bằng cách chuyển khoản đến tài khoản số 0403222xxxx mang tên Trần Trung K mở tại Ngân hàng Bưu điện Liên Việt, số tiền còn lại H sử dụng chi tiêu cá nhân hết.

Ngày 15/8/2022, Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an quận Hà Đông đã trưng cầu giám định chữ ký, chữ viết đứng tên Nguyễn Huy H trên Giấy bảo hành và Giấy biên nhận đề ngày 22/02/2021 đứng tên người bán cây Nguyễn Huy H.

Tại bản kết luận giám định số 6246/KL-KTHS ngày 12/9/2022 của Phòng kỹ Tật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: chữ ký, chữ viết đứng tên Nguyễn Huy H trên Giấy bảo hành và giấy biên nhận đề ngày 22/02/2021 là chữ ký, chữ viết của Nguyễn Huy H.

Ngày 08/3/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Nội đã trưng cầu giám định chữ ký, chữ viết đứng tên Trần Mạnh H2 trên 01 Giấy bảo hành và giấy biên nhận đề ngày 22/02/2021 đứng tên người bán cây là Trần Mạnh H2.

Tại bản kết luận giám định số 2109/KL-KTHS ngày 10/4/2023 của Phòng kỹ Tật hình sự - CA TP Hà Nội kết luận: chữ ký, chữ viết đứng tên Trần Mạnh H2 trên các 01 Giấy bảo hành và Giấy biên nhận đề ngày 22/02/2021 đứng tên người bán cây là Trần Mạnh H2 là chữ ký, chữ viết của Trần Mạnh H2.

Xác minh các tài khoản số 19001995xxxx, số 7001111xxxx đều mở tại Ngân hàng MBbank, tài khoản số 040322xxxx mở tại Ngân hàng Bưu điện Liên Việt của Nguyễn Huy H, Trần Mạnh H2, Trần Trung K đều giao dịch nhận, chuyển tiền như trên.

Tại Bản án số 480/2023/HS-ST ngày 26-9-2023, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã:

- Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Huy H 14 năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 15/7/2022.

- Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Trần Mạnh H2 13 năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 18/02/2023.

- Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; các điểm b và s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Trần Trung K 09 năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 07/10/2022.

Đều về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Về trách nhiệm dân sự: áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 357; khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự.

Ghi nhận sự tự nguyện của các bị cáo liên đới bồi thường cho bị hại bà Trịnh Thị T số tiền 1.936.000.000 đồng. Cụ thể kỷ phần của từng bị cáo:

- Bị cáo Nguyễn Huy H phải bồi thường số tiền 996.000.000 đồng.

- Bị cáo Trần Mạnh H2 phải bồi thường số tiền 900.000.000 đồng.

- Bị cáo Trần Trung K phải bồi thường số tiền 40.000.000 đồng. Xác nhận bị cáo K (do ông Trần Văn T - bố bị cáo nộp thay) đã nộp 40.000.000 đồng tại Cục thi hành án dân sự thành phố Hà Nội theo Biên lai T tiền số 0004759 ngày 19/9/2023.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định việc xử lí vật chứng, về án phí theo quy định.

Sau khi xét xử sơ thẩm:

- Ngày 05-10-2023, bị cáo Trần Trung K kháng cáo xin giảm hình phạt.

- Ngày 05-10-2023, bị hại là bà Trịnh Thị T kháng cáo đề nghị tăng hình phạt đối với 2 bị cáo H và H2, giảm hình phạt cho bị cáo K; buộc các bị cáo bồi thường thiệt hại và trả tiền lãi đối với số tiền đã chiếm đoạt; bị hại còn cho rằng có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm, ngoài thẻ bảo hành của bị cáo K, còn 1 thẻ bảo hành của vườn lan Yên Thủy gắn trên cây lan, nhưng việc này chưa được xem xét xử lí.

Tại phiên tòa:

Bị hại rút kháng cáo về phần trách nhiệm dân sự và giữ nguyên các yêu cầu kháng cáo khác.

Các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội và đề nghị xem xét giảm hình phạt cho các bị cáo.

- Ý kiến đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao:

Tại phiên tòa, bị hại đã rút kháng cáo về phần trách nhiệm dân sự; đề nghị đình chỉ xét xử phúc thẩm về phần này theo quy định của pháp luật.

Về hình phạt:

Đề nghị giảm hình phạt cho bị cáo Trần Trung K 06 tháng tù; giữ nguyên mức hình phạt đối với bị cáo H và chấp nhận kháng cáo của bị hại tăng hình phạt đối với bị cáo H2 lên 14 năm tù.

Không có căn cứ cho rằng việc xử lí vụ án còn bỏ lọt người phạm tội.

Luật sư bào chữa cho các bị cáo đề nghị giữ nguyên mức hình phạt đối với các bị cáo H và H2, giảm hình phạt cho bị cáo K xuống còn 07 năm tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được kiểm tra, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1]. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị hại kháng cáo liên quan đến phần hình phạt và trách nhiệm dân sự. Tại phiên tòa, bị hại đã rút kháng cáo về phần trách nhiệm dân sự, nên Hội đồng xét xử quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm về phần này theo quy định của pháp luật.

[2]. Khoảng tháng 02/2020, thấy thị trường lan đột biến buôn bán có lãi cao, mặc dù không có hoa lan đột biến để bán nhưng Nguyễn Huy H, Trần Mạnh H2 và Trần Trung K đã có hành vi gian dối hứa hẹn có hoa lan đột biến (giống chuẩn, có nguồn gốc rõ ràng, có cam kết bảo hành …) bán cho khách hàng, chiếm đoạt của bà Trịnh Thị T tổng số tiền là 1.936.000.000 đồng. Tòa án cấp sơ thẩm kết án các bị cáo Nguyễn Huy H, Trần Mạnh H2 và Trần Trung K về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật hình sự là đúng.

Hành vi phạm tội của các bị cáo thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng; về cơ bản các bị cáo Trần Mạnh H2 và Nguyễn Huy H có vai trò ngang nhau, sau khi phạm tội các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; các bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, con còn nhỏ; bị cáo H2 ra đầu thú. Trong số tiền chiếm đoạt 1.936.000.000 đồng của bị hại, bị cáo H chiếm hưởng nhiều nhất là 996.000.000 đồng, bị cáo H2 chiếm hưởng 900.000.000 đồng. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ các tình tiết của vụ án kết án bị cáo Nguyễn Huy H 14 năm tù và Trần Mạnh H2 13 năm tù là tương xứng với vai trò, mức độ phạm tội của các bị cáo. Không có căn cứ tăng hình phạt đối với các bị cáo theo yêu cầu kháng cáo của bị hại.

Đối với Trần Trung K: bị cáo phạm tội với vai trò đồng phạm giúp sức; trong số tiền chiếm đoạt, bị cáo chiếm hưởng ít nhất; trước khi xét xử sơ thẩm, bị cáo đã tác động gia đình nộp lại số tiền chiếm hưởng khắc phục hậu quả, chưa có tiền án, tiền sự; sau khi xét xử sơ thẩm, bị hại kháng cáo đề nghị giảm hình phạt cho bị cáo. Xem xét đầy đủ, toàn diện các tình tiết của vụ án trước và sau khi xét xử sơ thẩm, nhân thân bị cáo, xét thấy mức hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc, nên có căn cứ giảm hình phạt cho bị cáo.

- Đối với kháng cáo của bị hại cho rằng bỏ lọt người phạm tội Bị hại cho rằng ngoài thẻ bảo hành của bị cáo K, còn 01 thẻ bảo hành khác của vườn lan Yên Thủy - Hòa Bình gắn trên cây lan các bị cáo bán cho bị hại nhưng chưa đối tượng liên quan này chưa được xem xét, xử lí: trong quá trình giải quyết vụ án, các bị cáo H và H2 khai thống nhất việc chỉ thỏa Tận với K là chủ vườn lan về việc K đảm bảo xác nhận nguồn gốc lan các bị cáo bán là lan đột biến, khi bị hại liên hệ xác minh nguồn gốc. Mặt khác, bị hại khai chỉ liên hệ xác minh nguồn gốc lan với K, không liên hệ với đối tượng khác. Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa không có căn cứ cho rằng còn có đối tượng đồng phạm khác liên quan đến vụ án.

[3]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đã có hiệu lực pháp luật.

[4]. Về án phí: các bị cáo không phải nộp án phí phúc thẩm. Bị hại phải nộp án phí phúc thẩm liên quan đến kháng cáo về phần dân sự theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 342 và Điều 348 Bộ luật tố tụng hình sự. Đình chỉ việc xét xử phúc thẩm về phần trách nhiệm dân sự đối với các bị cáo Nguyễn Huy H, Trần Mạnh H2 và Trần Trung K.

Quyết định về phần trách nhiệm dân sự của Bản án số 480/2023/HS-ST ngày 26-9-2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đối với các bị cáo Nguyễn Huy H, Trần Mạnh H2 và Trần Trung K có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm.

2. Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự. Sửa Bản án số 480/2023/HS-ST ngày 26-9-2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội như sau:

- Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Huy H 14 năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 15/7/2022.

- Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Trần Mạnh H2 13 năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 18/02/2023.

- Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; các điểm b và s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 58; Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Trần Trung K 08 năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 07/10/2022.

Đều về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm nêu trên đã có hiệu lực pháp luật.

4. Bà Trịnh Thị T phải nộp 300.000 đồng án phí phúc thẩm. Xác nhận ông Trần Văn T đã nộp thay bà T số tiền trên vào ngày 07-11-2023, tại Cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

64
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 109/2024/HS-PT

Số hiệu:109/2024/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về