TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ ĐT, TỈNH QUẢNG NINH
BẢN ÁN 105/2022/HS-ST NGÀY 30/09/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 30 tháng 9 năm 2022, tại phòng xử án Tòa án nhân dân thị xã ĐT, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 102/2022/TLST-HS ngày 12 tháng 9 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 94/2022/QĐXXST- HS ngày 16 tháng 9 năm 2022 đối với bị cáo:
Họ và tên: Ngô Mạnh K; sinh ngày 17/01/1985, tại huyện HY, tỉnh Tuyên Quang; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: thôn LM 2, xã TH, huyện HY, tỉnh Tuyên Quang; đoàn thể trước khi phạm tội: Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam. Ngày 13/4/2022, Ủy ban kiểm tra huyện ủy HY ra Quyết định số 48- QĐ/UBKHU về việc đình chỉ sinh hoạt Đảng đối với Ngô Mạnh K; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô Tiến D và bà Trịnh Thị H; vợ: Đoàn Thị Th, con: có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2010; con nhỏ nhất sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: không có; bị cáo bị bắt bị bắt và giữ trong trường hợp khẩn cấp ngày 29/3/2022, hiện tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Ninh, có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: chị Đặng Thị Như H1; sinh năm 1981; nơi cư trú: khu phố 1, phường MK, thị xã ĐT, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
+ Anh Nguyễn Nguyên Ng; sinh năm 1977; địa chỉ: khu phố 1, phường MK, thị xã ĐT, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt + Bà Trịnh Thị H; sinh năm 1959; địa chỉ: thôn LM 1, xã TH, huyện HY, tỉnh Tuyên Quang. Có mặt
- Người làm chứng: chị Đặng Thị Thu H, anh Đắc Văn H2, chị Nguyễn Thị L, anh Ngô Văn D. Đều vắng mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngô Mạnh K có thời gian làm nghề buôn bán lợn giống tự do, đầu tháng 3/2022, thông qua bạn bè xã hội, K biết chị Đặng Thị Như H1 đang tìm mua con lợn giống để chăn nuôi, nên ngày 06/3/2022, K đã gọi điện thoại cho chị H1 và tự giới thiệu đang làm quản lý thị trường khu vực Quảng Ninh thuộc công ty (CP) và có khả năng cung cấp con lợn giống. Sau đó, K sử dụng zalo mang tên “Heo Giông” được lập từ số điện thoại 0862.348.X của K để nhắn tin và gửi một đoạn video có quay đàn con lợn giống đến zalo mang tên “DangH1gf” của chị H1, cả 2 thỏa thuận: K sẽ bán cho chị H1 300 (ba trăm) con lợn giống, trọng lượng khoảng 10 kg đến 12 kg/con, với giá là 1.100.000đ/con (một triệu một trăm nghìn đồng), chị H1 phải ứng trước cho K 30% (ba mươi phần trăm)/tổng số tiền phải trả.
Do tin tưởng và theo yêu cầu của K, ngày 09/3/2022 chị H1 đã chuyển 60.000.000đ (sáu mươi triệu đồng) từ số tài khoản Y của chị H1 mở tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) ở phòng giao dịch MK đến số tài khoản X của K mở tại Ngân hàng Công thương Việt Nam - Chi nhánh Tuyên Quang. Sau khi nhận được số tiền trên và tìm mua con lợn giống nH2 không mua được, K đã chiếm đoạt số tiền trên sử dụng vào việc cá nhân hết nên nảy sinh ý định tiếp tục chiếm đoạt tiền của chị H1.
Ngày 11/03/2022, để tạo niềm tin với chị H1, K đã lập 01 (một) Hợp đồng mua bán heo giống, số 5462/HĐMB ngày 11/03/2022 với thông tin cá nhân đại diện cho Bên A là “Ngô Mạnh K, sinh năm 1984, trú tại 121, Phạm Ng Thạch, thành phố Bắc Ninh, với số điện thoại là 0862.348.X (số điện thoại K vẫn đang sử dụng), bên B là Hợp tác xã nông nghiệp Tín Phát, địa chỉ thôn Phú Ninh, Bình Khê, ĐT, Quảng Ninh, với nội dung: Bên A bán cho bên B chủng loại con heo giống 3 màu, số lượng 300 con, giao hàng từ ngày 12/3/2022 đến hết ngày 14/3/2022, tại địa điểm Quảng Ninh” rồi gửi cho chị H1 thông qua ứng dụng zalo. Chị H1 tự in bản hợp đồng trên ra rồi đưa cho anh Nguyễn Nguyên Ng (chồng chị H1) là Giám đốc hợp tác xã Tín Phát ký và đóng dấu của “Hợp tác xã Tín Phát” vào mục bên B của bản hợp đồng. Ngày 11/3/2022, theo sự ủy quyền của anh Ng, chị H1 đã đến ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (Agribank) - Chi nhánh Tây Quảng Ninh làm thủ tục vay vốn và ủy nhiệm chi số tiền 400.000.000đ (Bốn trăm triệu đồng) từ số tài khoản Z của Hợp tác xã Nông nghiệp Tín Phát đến tài khoản thụ hưởng số X của K. Sau khi nhận được số tiền trên, K lấy lý do thừa tiền cân lợn nên cùng ngày K đã chuyển trả lại cho chị H1 số tiền 100.000.000đ (một trăm triệu đồng) vào số tài khoản Y của chị H1, số tiền còn lại K sử dụng vào việc cá nhân hết mà không mua con lợn giống nH2 vẫn gọi điện nhắn tin hứa hẹn ngày giao lợn cho chị H1, đồng thời còn gửi hình ảnh đàn lợn qua zalo mang tên “DangH1gf” cho chị H1 để tạo lòng tin.
Đến ngày 15/3/2022, để tiếp tục chiếm đoạt tiền, K gọi điện thoại cho chị H1 nói dối là đã cân lợn xong và thấy vẫn còn thiếu tiền nên yêu cầu chị H1 chuyển tiếp 22.000.000đ (hai mươi hai triệu). Cùng ngày, chị H1 tiếp tục chuyển số tiền trên vào tài khoản số X của K. Sau khi nhận được tiền, K tắt điện thoại và chặn zalo của chị H1 rồi sử dụng số tiền vào việc cá nhân hết, cùng ngày chị H1 đã trình báo công an giải quyết.
Ngày 29/3/2022, Ngô Mạnh K bị giữ và bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, quá trình điều tra, Ngô Mạnh K đã khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên. Ngoài ra K khai: Sau khi nhận số tiền 60.000.000đ (sáu mươi triệu đồng) chị H1 chuyển lần đầu, K đã đi tìm mua lợn giống nH2 không mua được nên đã sử dụng tiền để trả nợ một số người. Số tiền chị H1 chuyển sau đó, K sử dụng để đánh bạc qua các ứng dụng trên trang mạng xã hội vn.ku6110.net.
Về tạm giữ đồ vật, vật chứng: Thu giữ của K 01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu samsung A52, màu đen, số IMEI 1: 351022370321670, số IMEI 2: 351693300321673, gắn số sim 1: 038.520.9K, số sim 2: 037.281.0M, đã qua sử dụng.
Tại biên bản kiểm tra điện thoại di động của Ngô Mạnh K thể hiện ở mục nhật ký cuộc gọi đi, đến, các ứng dụng Facebook, Messenger, zalo…không phát hiện thấy có nội dung gì liên quan đến hành vi lừa đảo.
Tại biên bản kiểm tra điện thoại của chị Đặng Thị Như H1 thấy mục danh bạ có lưu tên “Bán lợn SP Giống” số 0862.348.X, còn lưu giữ tại mục cuộc gọi đi và đến với số trên; mục zalo còn lưu nội dung tin nhắn giữa tên “DangH1gf” với tên “Heo Giống” từ ngày 09/3/2022 đến ngày 15/3/2022 Về phần dân sự, bị cáo Ngô Mạnh K đã tác động gia đình tự nguyện bồi thường toàn bộ số tiền chiếm đoạt là 382.000.000đ (Ba trăm tám mươi hai triệu đồng) cho chị Đặng Thị Như H1, chị H1 không yêu cầu gì thêm và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Tại phiên tòa, bị cáo Ngô Mạnh K khai nhận như nội dung bản cáo trạng đã truy tố.
Ngoài ra, Ngô Mạnh K khai: Lần đầu tiên, bị cáo nhận của chị H1 số tiền 60.000.000đ (sáu mươi triệu đồng), bị cáo đã chuyển cho chị L để mua lợn giống số tiền 50.000.000đ (năm mươi triệu đồng). NH2 sau đó, chị L không mua được nên đã chuyển trả lại cho bị cáo. Bị cáo đã dùng toàn bộ số tiền 60.000.000đ (sáu mươi triệu đồng) để nạp vào tài khoản đánh bạc online. Khi biết chị H1 vẫn tin tưởng mình nên bị cáo tiếp tục có hành vi lập hợp đồng mua bán, với thông tin cá nhân giả mạo (tuy nhiên số điện thoại trong Hợp đồng vẫn là số điện thoại bị cáo đang sử dụng), mục đích để chị H1 tin tưởng chuyển tiền, rồi chiếm đoạt tiền của chị H1. Chị H1 đã chuyển cho bị cáo số tiền 400.000.000đ (bốn trăm triệu đồng), lấy lý do thừa tiền cân lợn nên cùng ngày bị cáo đã chuyển trả lại cho chị H1 số tiền 100.000.000đ (một trăm triệu đồng) vào số tài khoản Y của chị H1. Còn lại số tiền 300.000.000đ (ba trăm triệu đồng) bị cáo nạp vào tài khoản đánh bạc online, trả nợ và tiêu xài cá nhân. Khi bị cáo đánh bạc thua hết số tiền trên, để tiếp tục chiếm đoạt tiền của chị H1, bị cáo đã nói thiếu tiền cân lợn và yêu cầu chị H1 chuyển thêm tiền cho bị cáo số tiền 12.000.000đ (mười hai triệu đồng), do số lượng cân lợn tăng. Chị H1 đã chuyển cho bị cáo 22.000.000đ (hai mươi hai triệu đồng). Bị cáo cũng dùng số tiền này nạp vào tài khoản đánh bạc online hết. Chiếc điện thoại bị cáo dùng để liên lạc với chị H1, bị cáo đã bán đi. Chiếc điện thoại bị cáo bị thu giữ sau này bị cáo mới mua để làm phương tiện liên lạc với gia đình.
Bị hại chị Đặng Thị Như H1 vắng mặt tại phiên tòa nH2 có lời khai tại cơ quan điều tra và có quan điểm tại đơn xin xét xử vắng mặt như sau: do có nhu cầu mua lợn giống nên khi Ngô Mạnh K gọi điện thoại đến cho chị, giới thiệu đang làm quản lý thị trường khu vực Quảng Ninh của Công ty CP, nói bắt lợn giống cho chị sẽ được giá ưu đãi. Chị đã thống nhất với K bắt 300 con lợn giống, từ khoảng 10- 12kg/con và chuyển cho K 03 (ba) lần, với tổng số tiền 482.000.000 đồng. K có nói với chị do không cân đủ số cân lợn nên đã chuyển trả lại cho chị 100.000.000 đồng. Tuy nhiên sau đó, K không bắt lợn cho chị và chặn số liên lạc của chị. Như vậy, tổng số tiền mà K đã chiếm đoạt của chị là 382.000.000 đồng. Chị đã đề nghị cơ quan công an làm rõ hành vi lừa đảo của K. Đến nay, chị đã nhận đủ số tiền 382.000.000 đồng từ gia đình nhà K, chị không có yêu cầu gì thêm. Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Trịnh Thị H có lời khai: bà là mẹ ruột bị cáo Ngô Mạnh K. Sau khi K bị bắt vì có hành vi lừa đảo chị H1 để chiếm đoạt số tiền 382.000.000 đồng, K đã tác động gia đình bà trả toàn bộ số tiền trên cho chị H1. Bà không yêu cầu K phải trả bà số tiền trên.
Những người làm chứng chị Đặng Thị Thu H, chị Nguyễn Thị L, anh Đắc Văn H2 vắng mặt tại phiên tòa nH2 đều có lời khai thể hiện việc giao dịch tiền qua tài khoản với Ngô Mạnh K. Tuy nhiên, những lần K chuyển tiền là để trả nợ hoặc đặt hàng, không liên quan đến hành vi lừa đảo của bị cáo.
Tại Cáo trạng số:104/CT- VKS - ĐT ngày 09-9-2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã ĐT truy tố bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 174 Bộ luật Hình sự.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã ĐT tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo theo bản Cáo trạng. Sau khi xem xét đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, đại diện Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng:
- Điểm a khoản 3 Điều 174; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 07 (bảy) năm đến 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 29/3/2022.
+ Về hình phạt bổ sung: Bị cáo có hoàn cảnh khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
+ Về trách nhiệm dân sự: bị cáo Ngô Mạnh K đã tác động gia đình tự nguyện bồi thường toàn bộ số tiền chiếm đoạt là 382.000.000đ (ba trăm tám mươi hai triệu đồng) cho chị Đặng Thị Như H1, chị H1 không yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.
+ Về vật chứng của vụ án: căn cứ điểm a khoản 1 Điều 46; điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự: trả lại cho bị cáo Ngô Mạnh K 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu samsung màu đen, số Imei 1: 351022370321670, số Imei 2: 351693300321673 kèm theo 02 (hai) sim số 0385209Y và 0372810Z nH2 cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án.
Bị cáo không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra Công an thị xã ĐT, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã ĐT, kiểm sát viên thu thập và hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về các tài liệu, chứng cứ cũng như hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập và hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về việc định tội đối với bị cáo:
Lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa là phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Trong khoảng thời gian từ ngày 09 tháng 3 năm 2022 đến ngày 15 tháng 3 năm 2022, tại phường MK, thị xã ĐT, tỉnh Quảng Ninh, Ngô Mạnh K đã có hành vi gian dối dưới hình thức giới thiệu có khả năng cung cấp lợn giống và đưa ra các thông tin cá nhân không đúng thực tế để tạo niềm tin, sau đó chiếm đoạt 382.000.000đ (Ba trăm tám mươi hai triệu đồng) của chị Đặng Thị Như H1.
Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt sản”, quy định tại điểm a khoản 3 Điều 174 Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thị xã ĐT truy tố và kết luận về hành vi phạm tội đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của công dân, được pháp luật tôn trọng và bảo vệ, gây ảnh hưởng đến kinh tế của người bị hại, tạo nên tâm lý H1ng mang, lo lắng trong quần chúng nhân dân và ảnh hưởng đến trật tự trị an xã hội tại địa phương. Bị cáo là người trưởng thành nên có đầy đủ khả năng nhận thức được việc chiếm đoạt tài sản, tiền của người khác là hành vi trái pháp luật, khi bị phát hiện sẽ bị xử lý nghiêm khắc nH2 do ý thức chấp hành pháp luật kém, muốn được hưởng thành quả trên công sức lao động của người khác, bị cáo đã bất chấp pháp luật, cố ý thực hiện hành vi gian dối, dưới hình thức giới thiệu có khả năng cung cấp lợn giống và đưa ra các thông tin cá nhân, hình ảnh không đúng thực tế, để tạo niềm tin, sau đó chiếm đoạt tài sản của bị hại tiêu xài cá nhân. Do đó, bị cáo phải chịu trách nhiệm với hành vi của mình gây ra.
[3] Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đã tác động gia đình bồi thường toàn bộ số tiền cho bị hại, bị hại có đơn đề nghị xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, mẹ bị cáo là bà Trịnh Thị H, là thương binh loại 3, mất 37% sức khỏe, nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Từ những đánh giá, phân tích nêu trên, căn cứ vào nhân thân, hành vi, tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo cũng như những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy phải có mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, buộc bị cáo phải cách ly khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung tội phạm.
[4] Về hình phạt bổ sung: theo quy định tại khoản 5 Điều 174 Bộ luật Hình sự thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Xét bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[5] Về trách nhiệm dân sự: do bị cáo tác động gia đình bồi thường toàn bộ số tiền cho bị hại, bị hại không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không đề cập xử lý.
[6] Về xử lý vật chứng: 01 (một) điện thoại di động kèm theo sim không liên quan đến hành vi phạm tội cần trả lại cho bị cáo.
[7] Những tình tiết khác trong vụ án:
Liên quan trong vụ án còn có chị Nguyễn Thị L, chị Đặng Thị Thu H, anh Đắc Văn H2, anh Ngô Văn D và anh Giáp Văn Trọng là những người đã được Ngô Mạnh K chuyển tiền vào các tài khoản cá nhân, nH2 quá trình điều tra xác định các anh, chị trên đều nhận tiền của K do K trả nợ từ trước hoặc do quan hệ làm ăn, không biết việc K chiếm đoạt tiền của chị H1, nên không đề cập xử lý.
[8] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[9] Về quyền kháng cáo: bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh và hình phạt:
Căn cứ: điểm a khoản 3 Điều 174; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Ngô Mạnh K 07 (bảy) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 29/3/2022
2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 46; điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự: trả lại cho bị cáo Ngô Mạnh K 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu samsung màu đen, số Imei 1: 351022370321670, số Imei 2: 351693300321673 kèm theo 02 (hai) sim số 0385209Y và 0372810Z (Số vật chứng, tài sản trên có tình trạng và đặc điểm như Biên bản giao nhận vật chứng số 123 ngày 09 tháng 9 năm 2022 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã ĐT và Chi cục Thi hành án dân sự thị xã ĐT, tỉnh Quảng Ninh).
3. Về án phí: căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:
Bị cáo Ngô Mạnh K phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: căn cứ Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.
Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 105/2022/HS-ST
Số hiệu: | 105/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Đông Triều - Quảng Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về