Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 102/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 102/2023/HS-PT NGÀY 30/03/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 3 năm 2023, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng mở phiên tòa công khai tại trụ sở để xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 496/2022/TLPT-HS ngày 27/10/2022 đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 82/2022/HS-ST ngày 21/9/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng bị kháng cáo. Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 826/2022/QĐXXPT-HS ngày 23/02/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, đối với:

Bị cáo Đng Lê Nhật T, sinh ngày 19/3/1989 tại Đà Nẵng; Nơi cư trú: K451/H17/2 Đường T2, phường H, quận C, TP Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ học vấn:12/12; Giới tính: Nữ; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Phật giáo; Con ông: Đặng Tấn Ch (s) và bà Lê Thị Thu H1 (c). Gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con thứ 2; Có chồng là Thân Trọng T1 và có 2 con (con lớn nhất sinh năm 2015, con nhỏ nhất sinh ngày 09/8/2018). Tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại, có mặt.

Người bào chữa theo chỉ định của Tòa án cho bị cáo Đặng Lê Nhật T là Luật sư Lê Thị Hồng T2 - Công ty Luật trách nhiệm hữu hạn L, Đoàn Luật sư thành phố Đà Nẵng; địa chỉ: 82 đường H2, phường H3, quận H4, thành phố Đà Nẵng, Luật sư T2 có mặt.

Đại diện hợp pháp của bị cáo Đặng Lê Nhật T là ông Thân Trọng T1, sinh năm 1990; trú tại: K451/H17/2 Đường T2, phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng là chồng của bị cáo, ông T1 vắng mặt.

Bị cáo Phm Duy L, sinh ngày 10/12/1994 tại Quảng Ngãi; Nơi ĐKTT: Khối phố 4, thị trấn L, huyện T3, tỉnh Quảng Ngãi; Trú tại: Tổ 16 phường H, quận C, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Môi giới bất động sản; Trình độ học vấn:

12/12; Giới tính: Nam; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Con ông: Phạm Duy Th (s) và bà Đào Thị T4 (s). Gia đình bị cáo có 03 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại, có mặt.

Ngoài ra, vụ án còn có bị cáo Trần Thị Bình P, nhưng không kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị

NỘI DUNG VỤ ÁN

Các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng tháng 4/2019, Trần Thị Bình P thông qua việc môi giới mua bán nhà, đất có quen biết với Đặng Lê Nhật T; trao đổi P và T biết nhiều người dân có nhu cầu chuyển đổi mục đích sử dụng từ đất nông nghiệp sang đất ở nên P và T bàn bạc tìm người có nhu cầu. P nói với T là biết một đường dây “chạy” thủ tục chuyển đổi mục đích sử dụng đất và ra Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên P và T thống nhất ra “giá” làm một sổ là 200.000.000đồng, P nói dối T là cần chi phí 120.000.000 đồng cho cán bộ làm sổ, còn lại 80.000.000 đồng chia đôi.

Về phần T, L mặc dù biết rõ Trần Thị Bình P không làm trong cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Sổ và hiểu đây là đường dây bất hợp pháp vì phải “chung chi” tiền cho cán bộ và tuy chưa từng chứng kiến việc P “chạy” ra Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bất cứ ai, nhưng vì mục đich hưởng l’ợi nên Đặng Lê Nhật T và Phạm Duy L tích cực giúp P tìm, liên hệ với các bị hại để thực hiện hành vi phạm tội; trong khi các bị hại không biết Trần Thị Bình P là ai, mà chỉ tin tưởng và giao tiền thông qua T và L.

Sau khi thống nhất xong, từ tháng 4/2019 đến tháng 12/2019, Trần Thị Bình P cùng Đặng Lê Nhật T đã gian dối chiếm đoạt tiền của các bị hại sau:

Vụ 1: Chiếm đoạt 170.000.000 đồng của chị Phùng Thị Hồng P1.

Đầu tháng 5/2019, Trần Thị Bình P cùng Đặng Lê Nhật T nói dối chị Phùng Thị Hồng P1 việc P có quen đường dây chạy sổ đỏ, đã làm được sổ đỏ cho nhiều người trong đó có cô chồng của T. Tin lời T và P, chị P1 mua 01 lô đất trồng lúa diện tích 100m2, địa chỉ: thửa số 149, tờ bản đồ số 6, đường N1, phường H5, quận C, TP Đà Nẵng của chị Nguyễn Thị Thúy H6 giá 420.000.000đồng, rồi thông qua Đặng Lê Nhật T nhờ Trần Thị Bình P chạy ra sổ đỏ với chi phí là 200.000.000đồng, thời hạn làm thủ tục 02 tháng.

Ngày 27/5/2019, chị Phùng Thị Hồng P1 đưa Trần Thị Bình P 90.000.000 đồng, P viết giấy mượn tiền giao chị P1 giữ. Khi hết hạn hai tháng chưa có sổ thì chị P1 tìm hỏi vì sao chưa có sổ. Do không sử dụng tiền để làm sổ nên từ ngày 22/8/2019 đến ngày 15/11/2019, Trần Thị Bình P và Đặng Lê Nhật T tiếp tục nói dối chị P1 là “đã có thông báo nộp thuế, đã nhìn thấy tên chị P1 trong sổ đỏ nhưng chưa lấy sổ được do đang có thanh tra, và xin cấp giấy phép xây dựng” để chị P1 đưa thêm cho P tổng cộng 89.000.000 đồng. Trong các lần nhận tiền, P đều viết giấy mượn tiền giao chị P1 giữ. Trần Thị Bình P không làm thủ tục đất đai như hứa hẹn, chiếm đoạt của chi P1 179.000.000 đồng. P khai chia cho T tổng cộng 40.000.000 đồng, nhưng T khai chỉ nhận 15.000.000đồng, đã tổ chức đối chất nhưng P và T vẫn giữ lời khai của mình, cả hai đều không có chứng từ chứng minh.

Trần Thị Bình P chưa trả tiền cho chị P1, T đã nộp cho Cơ quan điều tra 15.000.000 đồng để khắc phục cho chị P1.

Vụ 2: Chiếm đoạt 95.000.000 đồng của chị Mai Thị Ch.

Tương tự như vụ trên, vào giữa tháng 5/2019, Trần Thị Bình P cùng Đặng Lê Nhật T nói dối chị Mai Thị Ch việc P có quen đường dây chạy sổ đỏ, đã làm được sổ đỏ cho nhiều người trong đó có cô chồng của T.Tin lời P và T, chị Ch đã nhờ làm thủ tục ra sổ đỏ cho 01 lô đất lúa, diện tích 100m2, địa chỉ thửa 497, tờ bản đồ số11, tổ 29 phường H5, quận C, TP Đà Nẵng. Do chị Mai Thị Ch là bà con bên chồng, nên Trần Thị Bình P cùng Đặng Lê Nhật T nói chi phí 150.000.000đ (một trăm năm mươi triệu đồng), thời hạn làm thủ tục 02 tháng (Trong đó Trần Thị Bình P nói chi cho cán bộ làm sổ là 120.000.000đ, còn lại 30.000.000đ cùng chia với Đặng Lê Nhật T mỗi người 15.000.000đ) Ngày 27/5/2019, chị Mai Thị Ch đưa Trần Thị Bình P 75.000.000đ (bảy mươi lăm triệu đồng). P viết giấy vay tiền đưa chị Ch giữ.

Hết hạn hai tháng đến ngày 27/7/2019, P và T tiếp tục nói dối chị Ch là đã thấy tên Mai Thị Ch trên sổ đỏ, yêu cầu chị Ch đưa thêm 20.000.000 đồng, P có viết giấy mượn tiền đưa chị Ch giữ.

Sau khi nhận tiền, Trần Thị Bình P không làm thủ tục mà chiếm đoạt của chị Ch 95.000.000 đồng. P khai chia cho T 22.500.000đồng, nhưng T khai chỉ nhận 10.000.000đồng, đã đối chất nhưng không giải quyết được mâu thuẫn, không có chứng từ chứng minh việc giao nhận tiền, không có người khác chứng kiến. Trần Thị Bình P và Đặng Lê Nhật T chưa trả tiền cho chị Ch.

Vụ 3: Chiếm đoạt 273.000.000 đồng của chị Nguyễn Thị Thúy V.

Đầu tháng 6/2019, Trần Thị Bình P cùng Đặng Lê Nhật T nói dối chị Nguyễn Thị Thúy V việc P có quen đường dây chạy sổ đỏ, đã làm được sổ đỏ cho nhiều người trong đó có cô chồng của T. Tin lời P và T, chị V mua từ Nguyễn Thị Thúy H6 02 lô đất trồng lúa có cùng diện tích 100m2, địa chỉ: thửa 71, tờ bản đồ số 4, phường H5, quận C, TP Đà Nẵng giá 400.000.000 đồng và thửa 149, tờ bản đồ số 6, đường N1, phường H5, quận C, TP Đà Nẵng giá 410.000.000 đồng rồi nhờ Trần Thị Bình P làm thủ tục chuyển đổi thành đất ở và ra sổ đỏ, chi phí mỗi lô là 200.000.000đồng x 2 = 400.000.000đồng (P nói chi phí chung chi cho cán bộ làm sổ 240.000.000đ, còn lại 160.000.000đ Trần Thị Bình P cùng Đặng Lê Nhật T chia nhau mỗi người 80.000.000đ), thời hạn 02 tháng.

Vào các ngày 04 và 07 tháng 6/2019, chị Nguyễn Thị Thúy V đưa Trần Thị Bình P tổng cộng 200.000.000đồng, P có viết giấy vay tiền giao V giữ. Sau khi hết hạn thỏa thuận, từ ngày 10/8/2019 đến ngày 15/11/2019, Trần Thị Bình P và Đặng Lê Nhật T tiếp tục nói dối chị V là “đã có thông báo nộp thuế, đã nhìn thấy tên chị V trong sổ đỏ nhưng chưa lấy sổ được do đang có thanh tra, và xin cấp giấy phép xây dựng” để chị V đưa thêm cho P 73.600.000đồng. Trần Thị Bình P viết giấy vay tiền giao chị V giữ.

Sau khi nhận tiền, Trần Thị Bình P không chạy thủ tục đất đai mà chiếm đoạt 273.600.000đồng. P khai chia cho T 46.00.000đồng, T khai chỉ nhận từ P 26.000.000đồng, đã tiến hành đối chất nhưng không giải quyết được mâu thuẫn, không có chứng từ chứng minh, không có người khác làm chứng. Trần Thị Bình P chưa trả lại tiền cho chị V. Đặng Lê Nhật T đã nộp cho Công an quận C và trả riêng cho bị hại tổng cộng 25.000.000đồng.

Vụ 4: Chiếm đoạt 125.000.000đồng của anh Trương Công H7.

Sau khi thực hiện các vụ việc trên trót lọt, đến tháng 11/2019, Trần Thị Bình P cùng Đặng Lê Nhật T tiếp tục nói dối anh Trương Công H7 việc P có quen đường dây chạy sổ đỏ, đã làm được sổ đỏ cho nhiều người trong đó có cô chồng của T. Tin lời P và T, anh H7 đã nhờ Trần Thị Bình P chạy thủ tục ra sổ đỏ cho 01 lô đất trồng lúa địa chỉ thửa đất 430, tờ bản đồ số 16, diện tích 115 m2, phường Hòa Khánh Nam, quận C, TP Đà Nẵng, chi phí 250.000.000đ (hai trăm năm mươi triệu đồng), thời hạn làm sổ đỏ trong 02 tháng.

Ngày 11/11/2019, anh Trương Công H7 đưa Trần Thị Bình P 125.000.000 đồng, P viết giấy nhận tiền giao anh H7 giữ, P chia cho T 25.000.000đồng. Sau đó, Trần Thị Bình P và Đặng Lê Nhật T tiếp tục nói dối việc sắp có sổ đỏ, nộp thuế đất để anh H7 đưa thêm tiền nhưng anh H7 nghi ngờ, không đồng ý chạy thủ tục nữa mà đòi lại tiền. Trần Thị Bình P đã trả 40.000.000đồng, Đặng Lê Nhật T đã trả 25.000.000đồng. P còn chưa trả anh H7 60.000.000đồng.

Vụ 5: Chiếm đoạt 498.000.000đồng của chị Nguyễn Thị L3 (do Phạm Duy L cùng Trần Thị Bình P thực hiện), cụ thể:

Từ giữa năm 2019, Phạm Duy L làm nghề môi giới bất động sản nên quen biết với Trần Thị Bình P, Nguyễn Thị Thúy H6, Đặng Lê Nhật T. Trong thời gian đó, L nghe P, T, H6 nói chuyện với nhau về nội dung P có quen biết đường dây chạy thủ tục đất đai, ra sổ đỏ nên nảy sinh ý định giới thiệu người khác cho P làm giúp thủ tục đất đai. Cũng giống như Đặng Lê Nhật T, Phạm Duy L cùng Trần Thị Bình P thống nhất mức chi phí chạy thủ tục ra sổ đỏ là 900.000.000đồng, trong đó 350.000.000đồng đưa P chạy thủ tục, số tiền còn lại 550.000.000 đồng chia nhau.

Tháng 10/2019, Trần Thị Bình P cùng Phạm Duy L nói dối vợ chồng chị Nguyễn Thị L3 việc P có quen đường dây chạy sổ đỏ, đã và đang làm sổ đỏ cho nhiều người, trong đó có 03 sổ đỏ cho L. Tin lời L và P, chị Nguyễn Thị L3 đồng ý chạy thủ tục ra sổ đỏ 01 lô đất địa chỉ 756/1, tờ bản đồ số 11, phường H5, quận C, TP Đà Nẵng với chi phí 900.000.000đồng, đưa trước 400.000.000đồng, thời hạn từ 2 đến 3 tháng. Sau khi thỏa thuận với chị Nguyễn Thị L3 xong. Đến ngày 14/10/2019, Trần Thị Bình P và Phạm Duy L nhận từ chị Nguyễn Thị L3 300.000.000đồng, hẹn 10 ngày sau đưa tiếp số tiền ứng trước như thỏa thuận. P có viết giấy nhận tiền giao L3 giữ. Ngày 24/10/2019, Trần Thị Bình P nói Phạm Duy L nhận thêm của Nguyễn Thị L3 100.000.000đồng, L viết giấy nhận tiền ngày 14/10/2019 đưa chị L3 giữ. Ngày 14/11/2019, Trần Thị Bình P yêu cầu chị Nguyễn Thị L3 đưa thêm 98.000.000đồng để nộp thuế, P nói Phạm Duy L đến nhà chị L3 nhận tiền, L viết giấy nhận tiền ngày 14/10/2019 đưa chị L3 giữ.

Tổng số tiền Trần Thị Bình P và Phạm Duy L chiếm đoạt của chị Nguyễn Thị L3 là 498.000.000đồng, trong đó, P chia cho Đặng Lê Nhật T 45.000.000đồng; P khai chia cho L 125.000.000đồng, nhưng L chỉ thừa nhận có nhận 25.000.000đồng, đã đối chất nhưng không giải quyết được mâu thuẫn trong lời khai, không có chứng từ chứng minh, không ai làm chứng. Trần Thị Bình P, Phạm Duy L, Đặng Lê Nhật T chưa trả lại tiền cho chị Nguyễn Thị L3.

Ngoài các bị hại nêu trên, quá trình điều tra còn xác định Trần Thị Bình P cùng Đặng Lê Nhật T, Nguyễn Thị Thúy H6 hứa hẹn chạy thủ tục đất đai cho những người sau:

+ Trong tháng 8/2019, Trần Thị Bình P cùng Đặng Lê Nhật T đã nhận của anh Phạm Hữu Tùng 20.000.000đồng, hứa hẹn chạy thủ tục chuyển đổi tên trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng không làm được sau đó, P đã trả lại đủ tiền nên anh Tùng có đơn không tố giác Trần Thị Bình P, không cung cấp chứng từ giao nhận tiền, từ chối cung cấp lời khai cho cơ quan điều tra.

+ Trong tháng 8/2019, Trần Thị Bình P cùng Đặng Lê Nhật T nhận 285.000.000đồng của chị Phan Thị Lập, hứa hẹn chạy thủ tục chuyển đổi mục đích sử dụng đất từ đất phi nông nghiệp lên đất ở cho 01 thửa đất nông nghiệp của vợ chồng chị Lập nhưng không làm được nên đã trả lại một phần tiền, chị Lập có đơn không tố giác, không cung cấp chứng từ giao nhận tiền, từ chối cung cấp lời khai cho cơ quan điều tra.

Sau khi Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng trả hồ sơ để điều tra lại, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Đà Nẵng đã tiến hành khởi tố bị cáo đối với Phạm Duy L về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 3 Điều 174 Bộ luật hình sự.

Quá trình điều tra nhận thấy Đặng Lê Nhật T có biểu hiện tâm thần trầm cảm, ngày 29/3/2022 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TPĐà Nẵng đã ban hành Quyết định trưng cầu Giám định số 33/QĐ-VP để giám định tình trạng sức khỏe tâm thần trước, trong và sau khi phạm tội của bị can Đặng Lê Nhật T. Tại bản kết luận giám định tâm thần số 551/KLGĐ ngày 11/5/2022 của Trung tâm pháp y Tâm thần khu vực miền Trung kết luận: Bị can Đặng Lê Nhật T trước, trong và hiện nay bị trầm cảm nặng, kèm theo các triệu chứng loạn thần (F32.3). Tại Công văn số 186/PYTT-PKHTH ngày 17/5/2022 Trung tâm pháp y Tâm thần khu vực miền Trung kết luận thời điểm gây án và thời điểm hiện tại, đối tượng Đặng Lê Nhật T mặc dù hạn chế khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi, nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 82/2022/HS-ST ngày 21/9/0222, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng quyết định:

- Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm a, g khoản 1 Điều 52; điểm b, q, s khoản 1; khoản 2 Điều 51; khoản 2 Điều 54 của BLHS, xử phạt bị cáo Đặng Lê Nhật T 06 (sáu) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, thời gian chấp hành hình phạt tù kể từ ngày bắt giam thi hành án.

- Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Duy L 05 (năm) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, thời gian chấp hành hình phạt tù kể từ ngày bắt giam thi hành án.

Bản án sơ thẩm còn có quyết định về hình phạt với bị cáo Trần Thị Bình P, quyết định về trách nhiệm dân sự, về xử lý vật chứng và án phí.

Sau khi xét xử sơ thẩm:

- Ngày 30/9/2022, bị cáo Đặng Lê Nhật T kháng cáo cho rằng bị cáo bị bệnh trầm cảm, hiện nay vẫn đang phải điều trị bệnh nên đề nghị cấp phúc thẩm giảm chi bị cáo một phần hình phạt.

- Ngày 03/10/2022 bị cáo Phạm Duy L kháng cáo đề nghị cấp phúc t hẩm giảm cho bị cáo một phần hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Bị cáo T và bị cáo L giữ nguyên kháng cáo.

- Luật sư T2 bào chữa cho bị cáo T đề nghị giảm thêm cho bị cáo một phần hình phạt vì hiện nay bị cáo bị bệnh trầm cảm nặng.

- Bị cáo L từ chối Luật sư bào chữa, chỉ xin giảm nhẹ hình phạt.

- Đại diện Viện kiểm sát phát biểu:

+ Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến phiên tòa phúc thẩm hôm nay, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, Thẩm phán, Thư ký Tòa án thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; Bị cáo chấp hành nghiêm chỉnh nội quy phiên tòa và thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ khi tham gia tố tụng.

+ Về nội dung: Đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, căn cứ việc xét hỏi và tranh tụng công khai tại phiên tòa, xét thấy: [1] Về tội danh, khung hình phạt:

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay bị cáo Đặng Lê Nhật T thừa nhận hành vi phạm tội như Tòa án cấp sơ thẩm xác định, cụ thể là do cần tiền chi tiêu cá nhân, mặc dù không có thẩm quyền chuyển đổi mục đích quyền sử dụng đất và cũng không có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho công dân, nhưng trong khoảng thời gian từ 4/2019 đến tháng 12/2019, Trần Thị Bình P, Đặng Lê Nhật T cấu kết với nhau, dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt của 05 người gồm: chị Phùng Thị Hồng P1, chị Nguyễn Thị Thúy V, chị Mai Thị Ch, anh Trương Công H7 và chị Nguyễn Thị L3 với tổng số tiền là 1.161.000.000 đồng; trong đó, T giúp sức cho P chiếm đoạt của 04 bị hại với tổng số tiền 663.000.000 đồng. Bị cáo T, mặc dù hạn chế khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi, nhưng theo Kết luận giám định tâm thần số 551/KLGĐ ngày 11/5/2022 của Trung tâm pháp y Tâm thần khu vực miền Trung thì bị cáo T vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự Tại Đơn kháng cáo và tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo Phạm Duy L trình bày tại phiên tòa sơ thẩm do không am hiểu pháp luật, cộng thêm áp lực tâm lý đứng trước Hội đồng xét xử nên bị cáo L không nhận tội nên mặc dù đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức hình phạt 3-4 năm tù, nhưng cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 5 năm tù. Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo L thừa nhận đã có hành vi giúp sức cho bị cáo Trần Thị Bình P chiếm đoạt của chị Nguyễn Thị L3 498.000.000 đồng nên xin cấp phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Xét thấy, với hành vi phạm tội nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố Đặng Lê Nhật T phạm “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự (chiếm đoạt tài sản có trị giá từ 500 triệu đồng trở lên) là đúng người, đúng tội, đúng khung hình phạt; tuyên bố bị cáo Phạm Duy L phạm “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm a khoản 3 Điều 174 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng khung hình phạt.

[2] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Đặng Lê Nhật T và Phạm Duy L, cấp phúc thẩm thấy:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo T câu kết chặt chẽ với bị cáo P đưa ra thông tin gian dối chiếm đoạt tiền của nhiều bị hại, bị cáo nên Tòa án cấp sơ thẩm buộc bị cáo T phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 2 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự là đúng pháp luật. Bị cáo Phạm Duy L, mặc dù biết P không làm trong cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chưa được bị cáo P giúp làm sổ đỏ được lần nào, nhưng L đã nói dối với chị L3 là đã nhờ P làm được 03 sổ đỏ, từ đó đã tạo niềm tin cho chị L3, để chị L3 tin tưởng nhờ L làm giúp sổ đỏ cho chị L3, L trực tiếp gặp chi L3 nhận 02 lần tiền tổng cộng 198.000.000đ nên Tòa án cấp sơ thẩm buộc bị cáo L phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 2 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự là đúng pháp luật.

[3] Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo T đã tự nguyện khắc phục một phần thiệt hại cho bị hại; bị cáo là người bị hạn chế khả năng nhận thức; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; hoàn cảnh gia đình khó khăn, con còn nhỏ; được bị hại Trương Công H7 xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bị cáo có nhân thân tốt; do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự qui định tại các điểm b, q, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo T là đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ bị cáo được hưởng.

Bị cáo L đã tự nguyện bồi thường toàn bộ phần thiệt hại do bị cáo gây ra đối với chị Nguyễn Thị L3, thể hiện thái độ ăn năn, hối cải; có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội, được bị hại Nguyễn Thị L3 xin giảm nhẹ hình phạt; do đó, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự qui định tại các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo là đủ các tình tiết giảm nhẹ bị cáo được hưởng.

[4] Về quyết định hình phạt:

Bị cáo T phạm “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự có mức hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân. Bị cáo T phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội 2 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; nhưng được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự qui định tại các điểm b, q, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự và do có nhiều tình tiết gảim nhẹ trách nhiệm hình sự nên Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo T 6 năm tù là dưới mức thấp nhất của khung hình phạt liền kề nhẹ hơn là đã có chiếu cố, đã xem xét kỹ việc bị cáo T bị bệnh trầm cảm nặng.

Bị cáo L phạm tội “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại khoản 3 Bộ luật hình sự có mức hình phạt tù từ 07 năm đến 15 năm tù. Bị cáo L phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội 2 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; nhưng được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự qui định tại các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo L 05 năm tù là dưới mức thấp nhất của khung hình phạt; không có tình tiết giảm nhẹ nào mới để xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ thời điểm hết hạn kháng cáo, kháng nghị. Bị cáo T và bị cáo L kháng cáo không được chấp nhận phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đặng Lê Nhật T, Phạm Duy L và giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 82/2022/HS-ST ngày 21/9/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng, cụ thể:

- Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm a, g khoản 1 Điều 52; điểm b, q, s khoản 1; khoản 2 Điều 51; khoản 2 Điều 54 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Đặng Lê Nhật T 06 (sáu) năm tù về “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, thời gian chấp hành hình phạt tù kể từ ngày bắt giam thi hành án.

- Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

khoản 1 Điều 54 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Phạm Duy L 05 (năm) năm tù về “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, thời gian chấp hành hình phạt tù kể từ ngày bắt giam thi hành án.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

Bị cáo Đặng Lê Nhật T và bị cáo Phạm Duy L mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

436
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 102/2023/HS-PT

Số hiệu:102/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về