TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 10/2023/HS-PT NGÀY 09/01/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 09 tháng 01 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 750/2022/TLPT-HS ngày 19 tháng 10 năm 2022 đối với bị cáo Hồ Thụy Thảo N và các bị cáo khác. Do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 23/2022/HS-ST ngày 31/8/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng.
- Các bị cáo kháng cáo:
1. Hồ Thụy Thảo N, sinh năm 1989 tại Lâm Đồng; nơi ĐKHKTT và cư trú: Thôn Đ, xã X, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Nguyên là nhân viên ngân hàng Á (A1) thành phố Đ; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hồ Phúc V và bà Nguyễn Thị Bích N1; gia đình có 04 anh chị em, lớn nhất sinh năm 1983, nhỏ nhất sinh năm 1993, bị cáo là con thứ hai trong gia đình; chồng: Lê Xuân M, sinh năm: 1989; con: 01 người con, sinh năm 2020.
Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo hiện đang được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).
2. Nguyễn Nguyên V1, sinh năm 1994, tại Lâm Đồng; nơi ĐKHKTT và cư trú: Số A H, Phường F, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Nguyên là nhân viên ngân hàng L2 chi nhánh L3; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh;
giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Thành T và bà: Nguyễn Thị H; gia đình có 02 anh chị em, lớn nhất sinh năm 1994, nhỏ nhất sinh năm 2001, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình; vợ: Lê Thị Kiều O, sinh năm 1994; con: 01 người con, sinh năm: 2020.
Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 20/12/2019 đến ngày 22/01/2020 được thay thế biện pháp bảo lĩnh. Bị cáo được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).
3. Nguyễn Thị Ái N2, sinh năm 1989, tại Lâm Đồng; nơi ĐKHKTT và cư trú: Thôn A, xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn S và bà: Nguyễn Thị N3; gia đình có 03 anh chị em, lớn nhất sinh năm 1987, nhỏ nhất sinh năm 2000, bị cáo là con thứ hai trong gia đình; sống chung như vợ, chồng với Nguyễn Hữu V2, sinh năm: 1987; có 01 người con, sinh năm: 2013 và 01 người con, sinh ngày 16/02/2022.
Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 20/12/2019 đến ngày 18/11/2020 được thay thế biện pháp bảo lĩnh. Bị cáo hiện đang được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú (có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/ Ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1967 (có mặt).
2/ Bà Nguyễn Thị N3, sinh năm 1968 (có mặt).
Cùng nơi cư trú: Thôn A, xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng.
- Người bào chữa theo chỉ định cho bị cáo Hồ Thụy Thảo N: Luật sư Trịnh Duy T1, thuộc Đoàn luật sư Thành phố H (có mặt).
Địa chỉ: số A H, thị trấn N, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Người bào chữa theo chỉ định cho bị cáo Nguyễn Nguyên V1: Luật sư Hồ Hoài N4, thuộc Đoàn luật sư Thành phố H (có mặt).
- Người bào chữa theo yêu cầu cho bị cáo Nguyễn Thị Ái N2:
1. Luật sư Lê Thanh T2, thuộc Đoàn luật sư Thành phố H (vắng mặt).
2. Luật sư Nguyễn Văn T3, thuộc Đoàn luật sư Thành phố H (có mặt).
Cùng địa chỉ: Công ty L4, Phòng 2.3 Tầng 2, Tòa nhà I, số D N, phường Đ, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Người tham gia tố tụng khác: Ngân hàng TMCP Á;
Người đại diện theo pháp luật: Ông Từ Tiến P – Tổng Giám đốc (vắng mặt).
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Thanh H1 – Giám đốc Phòng quản lý nợ (vắng mặt).
Ông Lê Thanh H1 ủy quyền lại ông Nguyễn Ngọc H2 - nhân viên (có mặt). (Theo Giấy ủy quyền số 2662/UQ-QLN.22 ngày 19/12/2022) Cùng địa chỉ: Lầu H Tòa nhà A1, D C, Phường A, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh.
(Trong vụ án còn có bị cáo Nguyễn Ngọc T4, các bị hại không kháng cáo, không liên quan đến kháng cáo nên Tòa án không triệu tập đến phiên tòa.)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồ Thụy Thảo N là nhân viên tín dụng (phòng khách hàng cá nhân) Ngân hàng Á (A1) phòng G, lợi dụng nghề nghiệp của mình N thường xuyên thỏa thuận vay tiền có trả lãi của nhiều người và nói với họ để đáo hạn các hồ sơ đang vay tại các ngân hàng. Từ đầu năm 2018, Hồ Thụy Thảo N và Nguyễn Thị Ái N2 (giữa N và N2 có quan hệ bạn bè và thường mượn tiền qua lại với nhau) vay tiền của nhiều người với số lượng tiền lớn nên N và N2 đã mất khả năng trả nợ cho những người Nguyên và N2 vay tiền, tuy nhiên N và N2 vẫn tiếp tục vay tiền của nhiều người với lãi suất thỏa thuận, số tiền vay được chủ yếu sử dụng xoay vòng để trả tiền gốc, tiền lãi cho người khác nhằm mục đích duy trì công việc và để tiếp tục tạo niềm tin để có thể tiếp tục vay được tiền. Bằng việc đưa ra các thông tin gian dối vay tiền để đáo hạn ngân hàng, Hồ Thụy Thảo N và Nguyễn Thị Ái N2 với sự giúp sức của Nguyễn Nguyên V1, Nguyễn Ngọc T4 đã chiếm đoạt tiền của các bị hại là bà Trương Thị Thu T5, bà Nguyễn Thị H3 và bà Cao Thị Kim P1, cụ thể như sau:
1. Đối với bà Trương Thị Thu T5:
Ngày 04/09/2019 thông qua sự giới thiệu của Châu Quốc H4, Hồ Thụy Thảo N điện thoại cho bà Trương Thị Thu T5 giới thiệu là nhân viên Ngân hàng Á, là bạn của H4 (bà T5 và H4 đã có quan hệ quen biết trước đó), N đề cập hỏi mượn bà T5 1.900.000.000đ (một tỷ chín trăm triệu đồng) để làm hồ sơ đáo hạn cho khách, bà T5 yêu cầu N cung cấp hồ sơ đáo hạn của khách để kiểm tra, để bà T5 tin tưởng và cho N vay tiền, N đã gửi qua tài khoản mạng xã hội Zalo của bà T5 hồ sơ thế chấp tài sản vay tiền tại ngân hàng ACB thành phố A1 của một khách hàng là bà Vũ Thị Minh T6, sinh năm 1958, HKTT: Thôn P, xã T, Tp ., hồ sơ thể hiện bà T6 vay số tiền 2.000.000.000đ (hai tỷ đồng) vào ngày 05/09/2018 tại ngân hàng ACB thành phố A1, N nói với bà T5 hồ sơ này cần đáo hạn lại vào ngày 05/09/2019 nên cần gấp số tiền 02 tỷ đồng (thực tế bà T6 tự đáo hạn ngân hàng khoản vay của mình chứ không nhờ N đáo hạn). Sau khi kiểm tra thông tin bà T5 tin và đồng ý cho N vay 1.900.000.000 đồng (một tỷ chín trăm triệu đồng), có làm giấy tờ ghi rõ ngày vay là 04/09/2019, hẹn ngày trả là 05/09/2019, mục đích vay để đáo hạn ngân hàng cho khoản vay của bà Vũ Thị Minh T6. Bà T5 yêu cầu cung cấp số tài khoản của khách là bà Vũ Thị Minh T6 để bà T5 chuyển vào tài khoản chứ không đưa tiền mặt trực tiếp cho N. N đồng ý và cung cấp số tài khoản của bà T6 mở tại ngân hàng ACB thành phố A1 để cho bà T5 làm thủ tục chuyển tiền vào tài khoản này.
Để tạo niềm tin cho bà T5 chuyển tiền, N đã nhờ bà T6 cho mượn số tài khoản để bà T5 chuyển số tiền 1.900.000.000 đồng vào tài khoản của bà T6, sau đó N lại nhờ bà T6 chuyển tiền qua số tài khoản của Hồ Thị T7 để cho bạn là Nguyễn Tường K vay số tiền này (vì T7 và K là bạn của nhau). Sau khi K trả lại tiền cho N thì N sử dụng 1.900.000.000 đồng này trả nợ cho bà Đào Thị L; HKTT: Thôn H, xã T, huyện L, tỉnh Lâm Đồng vì N vay tiền của L trước đó mà không trả lại tiền cho bà T5 theo cam kết.
Tại Kết luận giám định số 1652/GĐ-PC09 ngày 28/11/2019 của Phòng K1 Công an tỉnh L kết luận: Chữ ký, chữ viết trên mẫu cần giám định so với chữ ký, chữ viết trên mẫu so sánh đều do Hồ Thụy Thảo N viết, ký tên.
Như vậy: Kết quả điều tra đã có đủ căn cứ xác định bằng việc đưa ra thông tin gian dối là vay tiền để đáo hạn ngân hàng cho khách, Hồ Thụy Thảo N đã chiếm đoạt của bà Trương Thị Thu T5 số tiền 1.900.000.000 đồng (một tỷ chín trăm triệu đồng).
Người bị hại: Bà Trương Thị Thu T5 yêu cầu bị cáo N phải trả lại 1.900.000.000 đồng (một tỷ chín trăm triệu đồng) số tiền đã chiếm đoạt của bà. (BL: 611-622; 625-629; 630-631; 637; 640-641; 669; 672-701; 1000-1001;
1043-1044).
2. Đối với bà Nguyễn Thị H3:
Do có mối quan hệ quen biết và làm ăn từ trước nên thời gian trong năm 2019 bà Nguyễn Thị H3 đã nhiều lần cho N vay số tiền tổng cộng là 7.000.000.000đ (bảy tỷ đồng) và cho Nguyễn Thị Ái N2 vay số tiền là 1.400.000.000đ (một tỷ bốn trăm triệu đồng), các khoản vay này đều thỏa thuận lãi suất. Sau đó N và N2 muốn vay thêm tiền của bà H3 nhưng bà H3 không đồng ý vì cả N và N2 đều chưa trả lại tiền gốc, còn tiền lãi thì đóng không đầy đủ cho bà H3. Bà H3 yêu cầu nếu có hồ sơ khách hàng cần đáo hạn ngân hàng thì phải có cán bộ tín dụng làm hồ sơ đó, bà H3 mới cho vay tiền. Thời điểm này N và N2 đã vay nợ của nhiều người với số lượng tiền lớn, không có tài sản đảm bảo dẫn đến mất khả năng chi trả, do vậy, N và N2 đã bàn bạc với nhau để vay được tiền của bà H3 thì phải nhờ người làm cán bộ tín dụng trong ngân hàng đứng ra gặp và vay tiền của bà H3. Để thực hiện mục đích này N đã liên lạc nhờ Nguyễn Nguyên V1 (cán bộ tín dụng ngân hàng L2, giữa N với V1 có mối quan hệ quen biết nhau từ năm 2016 khi V1 còn làm tại Ngân hàng TMCP S1 chi nhánh L3) Nguyên nhờ V1 đứng ra vay tiền giúp cho N bằng cách đi cùng bạn của N (là N2) gặp người cho vay tiền và xác nhận có hồ sơ đáo hạn ngân hàng cho khách hàng do V1 làm hồ sơ để người cho vay tiền tin đưa tiền cho vay; mặc dù V1 biết đây là thông tin không có thật mà chỉ là thông tin gian dối tạo niềm tin đối với người cho N vay tiền, nhưng để giúp N vay được tiền V1 vẫn đồng ý giúp và đồng ý đi cùng với N2 ra gặp bà H3.
Ngày 04/09/2019, N2 điện thoại nói chuyện thông báo cho bà H3 biết có hồ sơ khách hàng cần đáo hạn do cán bộ tín dụng tên Nguyễn Nguyên Vũ công t tại ngân hàng L2, bà H3 yêu cầu gặp trực tiếp V1 để xác minh thông tin, N2 đồng ý. Khoảng 16h ngày 04/09/2019, vợ chồng bà H3 cùng con gái tên Nguyễn Thị Quỳnh H5 đi đến quán C (số C P, phường D, Tp .). Tại đây, N2 xác định với phía gia đình bà H3 là V1 cần vay tiền để đáo hạn hồ sơ cho khách, vài ngày xong sẽ trả lại tiền gốc, tiền lãi. N2 và bà H3 thỏa thuận với nhau lãi suất khoản vay là 3.000đ/ngày/một triệu đồng. Như đã bàn bạc thống nhất từ trước nên khi gặp bà H3, V1 nói với bà H3 có hồ sơ đáo hạn 1.100.000.000đ (Một tỷ một trăm triệu đồng) do V1 trực tiếp làm sẽ xong trong vài ngày tới, bà H3 tin và yêu cầu V1 và N2 cùng viết giấy vay số tiền 1.100.000.000đ vào ngày 04/9/2019, hẹn ngày 06/9/2019 khi đáo hạn cho khách xong sẽ trả tiền. Sau đó, V1 đi về còn N2 cầm số tiền này và sử dụng trả nợ cho bà Phạm Thị T8, HKTT: 5 H, phường F, Tp ..
Tiếp đến ngày 06/9/2019, N2 liên lạc với N nói cần vay thêm của bà H3 số tiền 1.500.000.000đ (Một tỷ năm trăm triệu đồng), N2 nói N liên lạc với V1 để nhờ V1 tiếp tục xác nhận với bà H3 có khách hàng V1 làm hồ sơ đáo hạn đang cần vay khoản tiền 1.500.000.000đ (Một tỷ năm trăm triệu đồng), bà H3 khi nghe nói V1 đứng ra chịu trách nhiệm vay tiền giống lần trước thì đồng ý cho vay. Khi N liên lạc nhờ thì V1 vẫn đồng ý. Chiều ngày 06/9/2019, bà H3 mang 1.500.000.000đ lên Tp . gặp N2 và cùng làm giấy tờ vay tiền và chờ V1 ra ký nhưng do Vũ bận việc không ra được, V1 có xác nhận với bà H3 qua điện thoại việc V1 vay 1.500.000.000đ để làm đáo hạn ngân hàng cho khách và nói bà H3 cứ giao tiền cho N2 cầm trước và hẹn khoảng 18h00 cùng ngày sẽ ra ký giấy vay tiền; Bà H3 tin và giao 1.500.000.000đ cho N2 theo yêu cầu của V1. Sáng ngày 07/9/2019, bà H3 lên Đ gặp V1 và V1 đã ký xác nhận ngày 06/9/2019 có vay của bà H3 số tiền 1.500.000.000đ, hẹn ngày 10/9/2019 sẽ trả lại số tiền trên.
Tối cùng ngày, N2 và V1 gặp nhau và N2 có chuyển khoản từ tài khoản của N2 qua tài khoản ngân hàng S2 mang tên V1 số tiền là 1.650.000đ (một triệu sáu trăm năm mươi ngàn đồng) để cám ơn V1 vì đã giúp đỡ cho N và N2 vay được tiền của bà H3. Số tiền còn lại N và N2 chia nhau sử dụng để trả nợ cụ thể:
N sử dụng trả tiền lãi cho bà Bạch Thị H6 (trú tại TT. Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng) số tiền 245.000.000đ (hai trăm bốn mươi năm triệu đồng), bị cáo N2 là người chuyển tiền trả qua tài khoản theo yêu cầu của bị cáo N.
N2 trả nợ cho bà Vương Thị Thùy T9 (trú tại đường B, phường F, Tp .) số tiền gốc 1.000.000.000đ (một tỷ đồng) và trả tiền lãi 5.000.000đ (Năm triệu đồng); trả cho ông Tống Quang Đ số tiền 153.250.000đ (một trăm năm mươi ba triệu hai trăm năm mươi ngàn đồng) trong phần tiền nợ của N2; trả cho bà Bạch Thị H6 số tiền lãi 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng); trả cho bà Phạm Thị T8 số tiền lãi 40.000.000đ (bốn mươi triệu đồng); trả cho bà Trần Thị L1 (trú tại N, huyện L, tỉnh Lâm Đồng) số tiền lãi 12.000.000đ (mười hai triệu đồng) trong phần tiền nợ của N2; trả cho bà Trần Thị V3 (trú tại T, huyện L, tỉnh Lâm Đồng) số tiền lãi 23.100.000đ (hai mươi ba triệu một trăm ngàn đồng) trong phần tiền nợ của N2. Bị cáo Vũ nhận chuyển khoản qua tài khoản ngân hàng từ bị cáo N2 số tiền 1.650.000đ (một triệu sáu trăm năm mươi ngàn đồng).
Kết luận giám định số 1810/GĐ-PC09 ngày 05/12/20192019 của Phòng K1 Công an tỉnh L kết luận: Chữ ký, chữ viết trên mẫu cần giám định so với chữ ký, chữ viết trên mẫu so sánh do Nguyễn Nguyên V1 và Nguyễn Thị Ái N2 viết, ký tên.
Như vậy, dưới sự giúp sức của Nguyễn Nguyên V1, bị cáo N2 đã chiếm đoạt của bà Nguyễn Thị H3 1.253.350.000đ (một tỷ, hai trăm năm mươi ba triệu, ba trăm năm mươi ngàn đồng); bị cáo N chiếm đoạt của bà H3 245.000.000đ (hai trăm bốn mươi lăm triệu đồng), bị cáo V1 nhận số tiền 1.650.000đ (một triệu sáu trăm năm mươi ngàn đồng). Quá trình điều tra các bị cáo N, V1, N2 đã thừa nhận hành vi phạm tội, riêng bị cáo V1 đã tự nguyện nộp lại số tiền 1.650.000đ cho Cơ quan điều tra và nộp tại Cục thi hành án số tiền 200.000.000đ (Hai trăm triệu đồng) để bồi thường khắc phục một phần hậu quả cho người bị hại là bà Nguyễn Thị H3.
Người bị hại: Bà Nguyễn Thị H3 yêu cầu cả ba bị cáo N, N2, V1 có trách nhiệm bồi thường cho bà toàn bộ số tiền đã chiếm đoạt của bà. (BL:733-767;
769-781-894; 943-997; 1002-1005; 1197-1210).
3. Đối với bà Cao Thị Kim P1:
Giữa bà P1 với Hồ Thụy Thảo N có mối quan hệ quen biết nhau qua một người hàng xóm của bà P1 giới thiệu. Thời điểm bắt đầu quen biết bà P1, N đã vay nợ tiền của rất nhiều người và không còn khả năng thanh toán các khoản nợ cũ, vì vậy để vay được tiền của bà P1 trả nợ cho người khác, N gặp bà P1 đề cập vay tiền để làm đáo hạn ngân hàng và có thỏa thuận lãi suất với bà P1, tùy vào từng khoản vay ở các thời điểm khác nhau (thời điểm này N đang là cán bộ tín dụng của Ngân hàng Á (A1) Tp .); từ ngày 04/02/2019 đến ngày 03/08/2019 N vay của bà P1 tổng số tiền là 6.000.000.000đ (sáu tỷ đồng) các khoản vay cụ thể như sau: Ngày 04/02/2019 cho N vay số tiền 500.000.000đ; ngày 11/05/2019 cho N vay số tiền 300.000.000đ; ngày 11/07/2019 cho N vay số tiền 1.340.000.000đ; ngày 12/07/2019 cho N vay số tiền 2.460.000.000đ; Ngày 16/07/2019 cho N vay số tiền 400.000.000đ; ngày 02/08/2019 cho N vay số tiền 400.000.000đ; ngày 03/08/2019 cho N vay số tiền 600.000.000đ.
Tuy nhiên ngay từ lần vay tiền đầu tiên vào ngày 04/02/2019 bà P1 đã yêu cầu N phải đưa chồng N cùng đến gặp và cả hai vợ chồng phải cùng ký vào giấy vay tiền để cùng chịu trách nhiệm với các khoản vay tiền thì bà P1 mới cho vay tiền. Ngày 04/02/2019 N điện thoại cho bà P1 hỏi mượn số tiền 500.000.000 đồng và hẹn sẽ cùng chồng xuống nhà bà P1 để ký giấy vay tiền theo yêu cầu của bà P1. Do không thể nói chồng của N là Lê Xuân M tham gia vào việc vay mượn tiền của người khác nên khi đến nhà bà P1, N nói dối với bà P1 là chồng đi công việc đột xuất nên không thể đi cùng N để cùng vay tiền được và hẹn với bà P1 là chồng N sẽ xuống ký xác nhận vào giấy vay tiền sau; Bà P1 thấy N đi đường xa đến nên đồng ý cho N vay số tiền 500.000.000đ và một mình N ký giấy vay tiền. Tiếp đến ngày 11/05/2019 N lại tiếp tục điện thoại hỏi mượn bà P1 số tiền 300.000.000đ, lần này bà P1 yêu cầu nếu không có chồng cùng đến và ký xác nhận nợ thì bà sẽ không cho vay tiền. Do vậy để bà P1 tin và tiếp tục vay được tiền của bà P1 trả nợ cho người khác, ngày 11/05/2019 N điện thoại cho anh rể là Nguyễn Ngọc T4, sinh năm 1992 (làm nghề cho thuê xe ô tô tự lái, sinh sống tại khu vực V, Tp ., tỉnh Khánh Hòa, N nhờ T4 đóng giả là chồng của N tên Lê Xuân M để cùng với N đến nhà bà P1 thực hiện việc vay tiền để làm đáo hạn ngân hàng cho khách. Mặc dù chỉ là anh rể của N, nhưng để N vay được tiền của bà P1, T4 vẫn đồng ý đóng giả làm chồng của N và cùng N xuống nhà của bà P1 để bà P1 tin T4 là chồng của N cùng đi vay tiền và ký xác nhận trên các giấy vay tiền. Tại nhà bà P1, T4 xác nhận với vợ chồng bà P1 mình là chồng của N tên là Lê Xuân M. Khi bà P1 yêu cầu cả hai vợ chồng cùng ký tên vào giấy vay số tiền 300 triệu đồng, T4 (đóng vai Lê Xuân M) và N cùng ký tên trong giấy vay tiền và bà P1 đã đưa số tiền 300.000.000đ cho N. Thể hiện trên “Giấy biên nhận vay tiền và nhận nợ” ghi ngày 11/05/2019 vay số tiền 300 triệu đồng do Hồ Thụy Thảo N và Nguyễn Ngọc T4 (giả làm Lê Xuân M) ký nhận với bà Cao Thị Kim P1 mà Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh L đã thu giữ. Tiếp đó, bà P1 yêu cầu N cùng T4 ký vào Giấy vay số tiền 500.000.000đ (năm trăm triệu đồng) ngày 04/02/2019, đây là số tiền N đã vay của bà P1 trước đó nhưng chưa ghi giấy tờ mà hẹn khi có đủ hai vợ chồng sẽ ký sau.
Sau khi nhận số tiền 300.000.000đ (ba trăm triệu đồng) từ P1, N cùng T4 đi xe taxi ra khu vực TT. L, huyện Đ và N sử dụng tiền trả nợ cho bà Phạm Thị Tú O1, sinh năm 1977 (HKTT: 792 Quốc lộ B, TT. L, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng) số tiền 200.000.000đ (hai trăm triệu đồng), N cho T4 500.000đ (năm trăm ngàn đồng) để đón xe đi về N, số tiền còn lại N sử dụng sinh hoạt, chi tiêu cá nhân và trả tiền lãi cho các khoản nợ khác. T4 trình bày không nhận 500.000đ (năm trăm ngàn đồng) từ Nguyên. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh L đã làm việc với bà O1 và xác nhận ngày 11/05/2019 N có đến nhà trả số tiền 200.000.000đ (hai trăm triệu đồng) mượn của bà O1 trước đó.
Bắt đầu từ lần vay thứ ba ngày 11/07/2019 sau khi N đã tạo được niềm tin với bà P1 đồng thời không thể nhờ T4 đóng giả là chồng nữa (vì T4 ở Tp .) nên N nói với bà P1 là để N một mình trực tiếp ký vào giấy vay tiền cho thuận tiện. Bà P1 đồng ý vì thấy N trả lãi đầy đủ hai khoản vay đầu tiên nên từ những lần vay tiền sau bà P1 không yêu cầu phải có chồng N cùng ký vào giấy xác nhận nợ nữa. Đến khoảng tháng 08/2019 bà P1 nhiều lần đòi N trả số tiền gốc là 6.000.000.000đ (sáu tỷ đồng) nhưng N không trả được và tìm cách tránh mặt bà P1, bà P1 đã cùng chồng đến nhà mẹ ruột của N tại thôn Đ, xã X, Tp . để tìm N, tại đây bà P1 nhìn tấm ảnh cưới của N đang treo trên tường và phát hiện người đàn ông đứng cạnh N không phải là người đàn ông đi cùng N xuống nhà bà, nên bà đã làm đơn tố cáo Hồ Thụy Thảo N và Nguyễn Ngọc T4 về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của bà.
Quá trình điều tra bị cáo Hồ Thụy Thảo N trình bày đã trả lại số tiền 500.000.000đ (năm trăm triệu đồng) và 300.000.000đ (ba trăm triệu đồng) cho bà P1 qua hình thức nhờ bạn của N là Đặng Hồ Bảo T10 chuyển vào tài khoản của bà P1 tại ngân hàng A2 (một tỷ đồng) vào ngày 12/06/2019, trong đó trả hai khoản tiền vay gốc đầu tiên tổng cộng là 800.000.000đ (tám trăm triệu đồng) và 200.000.000đ (hai trăm triệu đồng) tiền lãi. Bà P1 không đồng ý với lời khai của N; bà thừa nhận ngày 12/06/2019 N có nhờ một người tên Đặng Hồ Bảo T10 chuyển vào tài khoản của bà 1.000.000.000đ (một tỷ đồng) nhưng đây là số tiền N trả cho bà ở khoản vay tiền khác vì trước đó vào ngày 25/5/2019 N đã vay của bà 1.000.000.000đ (một tỷ đồng) để làm đáo hạn ngân hàng và nhờ bà chuyển vào tài khoản của Nguyễn Thị Ái N2 qua ngân hàng Á. Lời khai của bà P1 đồng thời phù hợp với chứng từ chuyển tiền của bà P1 cho Nguyễn Thị Ái N2 số tiền 1.000.000.000đ (một tỷ đồng) vào ngày 25/5/2019; Phù hợp với lời khai của Nguyễn Thị Ái N2 xác nhận giữa N2 và bà P1 không có mối quan hệ làm ăn gì, ngày 25/5/2019 N điện thoại cho N2 nói sẽ có người tên Cao Thị Kim P1 chuyển vào tài khoản Nhi 1.000.000.000đ (một tỷ đồng) và nhờ N2 tiếp tục chuyển số tiền này qua số tài khoản của một người tên Phạm Thị Tú O1 với nội dung là “N chuyển tiền”; lời khai của bà P1 còn phù hợp với lời khai thừa nhận của bị cáo N là vào ngày 25/5/2019 N đã vay bà 1.000.000.000đ (một tỷ đồng) để làm đáo hạn ngân hàng và nhờ bà chuyển vào tài khoản của Nguyễn Thị Ái N2, bà P1 khẳng định giữa bà P1 và N nếu trả xong khoản nợ nào thì bà sẽ trả cho N giấy vay tiền đó để N xé đi. Ngoài lời khai đã trả hai khoản nợ trên cho bà P1, N không cung cấp được chứng cứ nào khác về việc đã trả tiền cho bà P1, do vậy không có căn cứ để thừa nhận lời khai của N cho rằng đã trả cho bà P1 hai khoản vay đầu tiên là số tiền 500.000.000đ (năm trăm triệu đồng) và 300.000.000đ (ba trăm triệu đồng).
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh L đã ra Quyết định Trưng cầu giám định số 162/QĐ-VPCQCSĐT trưng cầu Phòng K1 Công an tỉnh L giám định chữ ký, chữ viết ở mục “Bên vay ký” trong hai giấy vay tiền 500.000.000đ (năm trăm triệu đồng) và 300.000.000đ (ba trăm triệu đồng), xác định chữ ký, chữ viết trong hai giấy là do Nguyễn Ngọc T4 giả mạo ký tên Lê Xuân M.
Quá trình điều tra, các bị cáo N và T4 đều thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Như vậy với sự giúp sức của Nguyễn Ngọc T4, bị cáo N đã chiếm đoạt số tiền 300.000.000đ (ba trăm triệu đồng) của bà Cao Thị Kim P1. Đối với giấy xác nhận nợ 500.000.000đ (năm trăm triệu đồng) mặc dù T4 có ký xác nhận là chồng của N là Lê Xuân M nhưng thực tế việc vay tiền đã xảy ra trước đó, không có sự tham gia giúp sức của T4, do vậy T4 không phải chịu trách nhiệm đối với N về lần vay này, lần vay tiền này và những lần vay tiền còn lại giữa bà P1 và N với tổng số tiền là 5.700.000.000đ (năm tỷ bảy trăm triệu đồng) chỉ là thỏa thuận vay mượn tiền có thỏa thuận lãi suất với nhau, đây chỉ là giao dịch dân sự nên không đề cập.
Người bị hại: Bà Cao Thị Kim P1 yêu cầu T4 và N có trách nhiệm trả cho bà số tiền 300.000.000đ mà T4 đã giúp sức cho N chiếm đoạt của bà, ngoài ra riêng bị cáo N phải trả lại số tiền đã vay của bà là 5.700.000.000đ. (BL: 1235- 1244; 1247-1249; 1251-1255; 1257; 1260-1261; 1278-1345; 1358-1370; 1419- 1440).
Về tài sản: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh L đã ra Lệnh kê biên tài sản đối với tài sản của Hồ Thụy Thảo N:
+ Thửa đất số 279, tờ bản đồ số 10, diện tích 146,76 m2, trong đó nhà ở tổng diện tích sử dụng là 193,78 m2, diện tích xây dựng là 112,38 m2 ở địa chỉ số B P, Phường B, thành phố Đ theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 4201021774.
+ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số P344195 thửa đất số 1000, tờ bản đồ số 35 thuộc xã X, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng.
Cơ quan CSĐT đã ra Lệnh kê biên tài sản đối với tài sản của Nguyễn Thị Ái N2 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CQ 393991 do Sở tài nguyên và môi trường tỉnh L cấp ngày 12/04/2019, thửa đất số 1113, tờ bản đồ số 23 địa chỉ tại xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng, diện tích 191m2 (trong đó có 100m2 đất ở và 91m2 đất trồng cây lâu năm) Đồ vật, tài liệu tạm giữ gồm:
01 (một) Giấy vay tiền Hồ Thụy Thảo N ghi cho bà Trương Thị Thu T5 vay số tiền 1,9 tỷ đồng vào ngày 04/09/2019 (bản gốc).
01 (một) Giấy vay tiền Nguyễn Nguyên V1, Nguyễn Thị Ái N2 ghi cho bà Nguyễn Thị H3 vay số tiền 1,1 tỷ đồng vào ngày 04/09/2019 (bản gốc).
01 (một) Giấy vay tiền Nguyễn Nguyên V1, Nguyễn Thị Ái N2 ghi cho bà Nguyễn Thị H3 vay số tiền 1,5 tỷ đồng vào ngày 06/09/2019 (bản gốc).
Thu giữ của Hồ Thụy Thảo N 01 điện thoại di động Iphone màu hồng, model A1661FCC, ID:BCG-E3087A, IC:579C-E87A;
Thu giữ của Nguyễn Thị Ái N2 01 điện thoại di động Nokia màu đen, số Imel:35768100599295; code :059z 166 Thu giữ của Nguyễn Nguyên V1 01 điện thoại di động Iphone 6 Plus màu đen, số Imel: 354390063974411 và 1.650.000đ (Một triệu sáu trăm năm mươi ngàn đồng) V1 tự nguyện giao nộp cho CQĐT là số tiền N và N2 đưa cho V1 trong tổng số tiền chiếm đoạt của bà Nguyễn Thị H3 (BL: 1221,1222).
Quá trình điều tra, các bị cáo thành khẩn khai báo, thừa nhận hành vi phạm tội của mình; bị cáo V1 đã nộp lại số tiền 1.650.000 đồng cho Cơ quan điều tra và nộp tại Cục thi hành án số tiền 200.000.000 đồng để khắc phục hậu quả.
Tại Cáo trạng số 09/CT-VKSLĐ-P1 ngày 28/4/2021, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng truy tố các bị cáo Hồ Thụy Thảo N, Nguyễn Nguyên V1, Nguyễn Thị Ái N2 về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự; Nguyễn Ngọc T4 về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 174 Bộ luật Hình sự.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 23/2022/HS-ST ngày 31 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng quyết định:
Tuyên bố các bị cáo Hồ Thụy Thảo N, Nguyễn Nguyên V1, Nguyễn Thị Ái N2 phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
- Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Hồ Thụy Thảo N mức án 15 (mười lăm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt giam thi hành án.
- Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Ái N2 mức án 13 (mười ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt giam thi hành án, được trừ thời gian tạm giam từ ngày 20/12/2019 đến ngày 18/11/2020 vào thời gian chấp hành hình phạt tù.
- Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 2 Điều 54; Điều 38; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Nguyên V1 mức án 10 (mười) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt giam thi hành án, được trừ thời gian tạm giam từ ngày 20/12/2019 đến ngày 22/01/2020 vào thời gian chấp hành hình phạt tù.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về tội danh và hình phạt của bị cáo Nguyễn Ngọc T4, về trách nhiệm dân sự, về xử lý vật chứng, về tài sản kê biên bảm đảm thi hành án, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 05/9/2022, bị cáo Hồ Thụy Thảo N có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Ngày 05/9/2022, bị cáo Nguyễn Nguyên V1 có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và kháng cáo về phần trách nhiệm dân sự.
Ngày 07/9/2022, bị cáo Nguyễn Thị Ái N2 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt; yêu cầu hủy lệnh kê biên đối thửa đất số 1113, tờ bản đồ số 23 địa chỉ tại xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng, diện tích 191m2 (trong đó có 100m2 đất ở và 91m2 đất trồng cây lâu năm) theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CQ 393991 do Sở tài nguyên và môi trường tỉnh L cấp ngày 12/04/2019, đứng tên bị cáo, vì đây là tài sản chung của ông Nguyễn Văn S và bà Nguyễn Thị N3.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị cáo Hồ Thụy Thảo N giữ nguyên nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt vì khi phạm tội bị cáo đang mang thai và nuôi con dưới 36 tháng tuổi.
Bị cáo Nguyễn Nguyên V1 xin rút kháng cáo về phần trách nhiệm dân sự, giữ nguyên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt vì mức hình phạt 10 năm là quá nghiêm khắc.
Bị cáo Nguyễn Thị Ái N2 giữ nguyên nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và đề nghị hủy lệnh kê biên thửa đất số 1113, tờ bản đồ số 23 địa chỉ tại xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng do đây là tài sản bị cáo đứng tên giùm cho ông Nguyễn Văn S và bà Nguyễn Thị N3, không phải là tài sản của bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm:
Qua phần thẩm vấn công khai tại phiên tòa, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo Hồ Thụy Thảo N, Nguyễn Nguyên V1, Nguyễn Thị Ái N2 phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là đúng người đúng tội, đúng qui định pháp luật.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Hồ Thụy Thảo N xuất trình bản sao, không được chứng thực là “Giấy khai sinh” của cháu Lê Minh A sinh ngày 03/6/2020; Các bị cáo Nguyễn Nguyên V1, Nguyễn Thị Ái N2 xuất trình các tài liệu thể hiện gia đình có công với cách mạng.
Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo: Tòa án cấp sơ thẩm không xem xét tình tiết bị cáo N khi phạm tội đang mang thai, nuôi con dưới 36 tháng tuổi, do đó đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo N, xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo N. Đối với các bị cáo N2, V1: nếu chứng minh được quan hệ nhân thân với người có công cách mạng thì cũng đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm cân nhắc giảm nhẹ hình phạt, phù hợp với qui định pháp luật.
Riêng thửa đất số 279, tờ bản đồ số 10, diện tích 146,76 m2, trong đó nhà ở tổng diện tích sử dụng là 193,78 m2, diện tích xây dựng là 112,38 m2 ở địa chỉ số B P, phường B, thành phố Đ, qua điều tra xác định, bị cáo Hồ Thụy Thảo N nhờ ông Trần Long N5 đứng tên giùm trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hiện đang thế chấp tại Ngân hàng TMCP Á. Tuy nhiên, cấp sơ thẩm không đưa ông Trần Long N5, Ngân hàng TMCP Á vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là có thiếu sót. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm hủy một phần bản án sơ thẩm về trách nhiệm dân sự là tài sản kê biên bảo đảm thi hành án nêu trên.
Luật sư Trịnh Duy T1, bào chữa cho bị cáo Hồ Thụy Thảo N trình bày:
Không tranh luận về tội danh. Khi lượng hình, Tòa án cấp sơ thẩm chỉ xem xét một tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo quy định điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; nhưng không xem xét “Người phạm tội là phụ nữ có thai” quy định điểm n khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, bị cáo còn khắc phục một phần hậu quả do mình gây ra. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm n khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để chấp nhận kháng cáo của bị cáo N, giảm cho bị cáo một phần hình phạt. Đối với phần kê biên tài sản của bị cáo N, thống nhất quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát.
Luật sư Hồ Hoài N4, bào chữa cho bị cáo Nguyễn Nguyên V1 trình bày:
Về động cơ mục đích phạm tội, bị cáo N đã hỗ trợ cho V1 trong thời gian công tác tại ngân hàng, bị cáo V1 rất tin tưởng N, bị N lôi kéo, hành vi của V1 không nhằm mục đích chiếm đoạt, không vụ lợi. Bị cáo V1 có các tình tiết giảm nhẹ như: Bị cáo nuôi con nhỏ, hoàn cảnh gia đình khó khăn, là lao động chính trong gia đình. Mặc dù quá trình xác minh địa phương do thất lạc tài liệu không xác nhận nhưng cũng có cơ sở là cháu của liệt sỹ ông Lê Viết H7, người có công trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát đề nghị mức hình phạt của bị cáo V1 từ 7 đến 8 năm tù. Đặc biệt bị cáo V1 đã tự nguyện khắc phục hậu quả 200 triệu, là số tiền rất lớn đối với gia đình bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo V1, giảm cho bị cáo một phần hình phạt nhằm thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.
Luật sư Nguyễn Văn T3, bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị Ái N2 trình bày:
Thống nhất về tội danh, về phần hình phạt của Tòa án cấp sơ thẩm là quá nghiêm khắc. Ngoài tình tiết thành khẩn khai báo quy định điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, đề nghị xem xét thêm “Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án” tại điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự; hơn nữa bị cáo N2 có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, về lý lịch chưa có tiền án tiền sự, bị cáo N2 là phụ nữ, là mẹ đơn thân nuôi 2 con nhỏ, hoàn cảnh gia đình khó khăn, có ông nội là liệt sỹ, đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự để xét xử mức hình phạt thấp nhất cho bị cáo N2.
Đối với tài sản bị kê biên là thửa đất số 1113, tờ bản đồ số 23 địa chỉ tại xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng là tài sản chung của ông Nguyễn Văn S và bà Nguyễn Thị N3, là bố mẹ của bị cáo N2, đề nghị Hội đồng xét xử hủy lệnh kê biên nhằm đảm bảo cuộc sống cho ông S bà N3.
Ông Nguyễn Văn S và bà Nguyễn Thị N3 đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo N2, hủy kê biên đối với thửa đất số 1113, tờ bản đồ số 23 địa chỉ tại xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về nội dung:
[1.1] Hồ Thụy Thảo N là nhân viên tín dụng tại Ngân hàng Á (A1) phòng G. Lợi dụng nghề nghiệp của mình, N thường xuyên thỏa thuận vay tiền có trả lãi của nhiều người để đáo hạn các hồ sơ đang vay tại các ngân hàng. Từ đầu năm 2018, N đã mất khả năng trả nợ, tuy nhiên N vẫn tiếp tục vay tiền của nhiều người với lãi suất thỏa thuận để trả tiền gốc, tiền lãi cho người khác nhằm mục đích duy trì công việc và tiếp tục tạo niềm tin để có thể tiếp tục vay được tiền. Bằng việc đưa ra các thông tin gian dối là có khách hàng là bà Vũ Thị Minh T6 đang cần vay tiền để đáo hạn ngân, N đã làm cho bà Trương Thị Thu T5 tin tưởng và chiếm đoạt số tiền 1.900.000.000 đồng (một tỷ chín trăm triệu đồng) của bà T5.
[1.2] Bằng thủ đoạn tương tự, khoảng thời gian năm 2018, cả ba bị cáo Hồ Thụy Thảo N, Nguyễn Thị Ái N2 và Nguyễn Nguyên V1 đã bàn bạc và đưa ra những thông tin gian dối đối với bà Nguyễn Thị H3 là vay 1.100.000.000 đồng và 1.500.000.000đ của bà H3 để đáo hạn cho khách hàng của V1 nhưng thực chất là để bị cáo N và N2 dùng số tiền trên để trả nợ cho người khác. Theo đó, bị cáo N2 đã chiếm đoạt của bà H3 2.353.350.000 đồng; bị cáo N chiếm đoạt của bà H3 245.000.000 đồng, bị cáo V1 nhận số tiền 1.650.000 đồng từ bị cáo N2.
[1.3] Đến đầu năm 2019, sau nhiều lần vay tiền của bà Cao Thị Kim P1 mà không trả được bà P1 yêu cầu phải có chồng của N cùng đứng ra ký tên mượn tiền, N đã nhờ và bàn bạc với anh rể của mình là Nguyễn Ngọc T4 nhờ T4 đóng giả làm chồng của N là Lê Xuân M để tạo niềm tin và đưa ra những thông tin gian dối đối với bà P1. Tại nhà bà P1, Nguyễn Ngọc T4 đã tự nhận là chồng của bị cáo N và cùng N ký vào giấy xác nhận nợ với bà P1 từ đó để bà P1 cho N vay tiền và chiếm đoạt 300.000.000 đồng của bà P1.
[1.4] Hành vi nêu trên của các bị cáo Hồ Thụy Thảo N, Nguyễn Thị Ái N2 và Nguyễn Nguyên V1 đã bị Toà án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội.
[2] Xét kháng cáo của các bị cáo:
[2.1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Nguyên V1 đã tự nguyện xin rút một phần kháng cáo về việc xin giảm trách nhiệm dân sự. Xét thấy, việc rút kháng cáo của bị cáo là tự nguyện, không trái pháp luật nên Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với phần kháng cáo trách nhiệm dân sự của bị cáo Nguyễn Nguyên V1 theo Điều 348 Bộ luật Tố tụng hình sự.
[2.2] Đối với kháng cáo của các bị cáo Hồ Thụy Thảo N, Nguyễn Thị Ái N2 và Nguyễn Nguyên V1 xin giảm nhẹ hình phạt:
Hội đồng xét xử xét thấy, khi lượng hình Toà án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ vai trò, tính chất phạm tội của từng bị cáo như: Bị cáo N là người có vai trò cao nhất, chủ động đề xuất các bị cáo phạm tội, chiếm đoạt số tiền nhiều nhất nên phải chịu mức án cao nhất. Bị cáo N2 cũng đề xuất việc chiếm đoạt tiền lần hai của bị hại H3 và yêu cầu bị cáo N liên lạc với bị cáo V1 để xác nhận việc có khách hàng cần vay vốn, trực tiếp sử dụng số tiền chiếm đoạt của bị hại H3 nên bị cáo cũng có vai trò quan trọng trong vụ án, bị cáo V1 tham gia với vai trò giúp sức cho bị cáo Nguyên do được N nhờ mà không có thoả thuận phân chia số tiền chiếm đoạt được. Đồng thời, Toà án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ cho các bị cáo như:
- Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo đều thực hiện hành vi phạm tội 02 lần, nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng quy định điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
- Về tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Bị cáo N đã nộp 100.000.000 đồng để khắc phục hậu quả cho các bị hại nhưng số tiền khắc phục quá ít so với số tiền bị cáo đã chiếm đoạt của các bị hại nên Toà án cấp sơ thẩm áp dụng khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự là có căn cứ. Để chứng minh đang nuôi con nhỏ, bị cáo N xuất trình tài liệu là bản sao, không chứng thực nên Hội đồng xét xử không chấp nhận đây là tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo N. Bị cáo N2 cung cấp tài liệu thể hiện hoàn cảnh gia đình khó khăn, có người thân là người có công với cách mạng. Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho các bị cáo N, N2. Mức hình phạt mà bản án sơ thẩm tuyên phạt cho các bị cáo N, N2 là phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo nên Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo N, N2.
Đối với bị cáo V1, mặc dù bị cáo chỉ nhận từ N2 số tiền 1.650.000đ (một triệu sáu trăm năm mươi ngàn đồng) nhưng bị cáo đã bồi thường một phần cho bị hại bà Nguyễn Thị H3 số tiền 200.000.000đ (hai trăm triệu đồng) nên được áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định điểm b khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo V1 xuất trình các tài liệu thể hiện là có người thân là người công với cách mạng mặc dù do trải qua thời gian dài, thất lạc tài liệu không chứng minh được mối quan hệ nhân thân. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận thấy bị cáo V1 có hoàn cảnh gia đình khó khăn, đang nuôi con nhỏ nên áp dụng khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 để chấp nhận kháng cáo của bị cáo V1, giảm một phần hình phạt lẽ ra bị cáo phải chịu nhằm thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.
[2.4] Xét kháng cáo của bị cáo N2 yêu cầu hủy kê biên đối với Thửa đất số 1113, tờ bản đồ số 23 địa chỉ tại xã L, huyện B, tỉnh Lâm Đồng, diện tích 191m2 (trong đó có 100m2 đất ở và 91m2 đất trồng cây lâu năm) theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số CQ 393991 do Sở tài nguyên và môi trường tỉnh L cấp ngày 12/04/2019 do đây là tài sản bị cáo đứng tên giùm cho ông Nguyễn Văn S và bà Nguyễn Thị N3. Hội đồng xét xử xét thấy: Do bị cáo là người đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đối với thửa đất này nên việc kê biên đối với thửa đất này để đảm bảo thi hành án là có căn cứ. Tòa án cấp sơ thẩm cũng đã giành quyền khởi kiện dân sự nếu ông S và bà N3 nếu có yêu cầu. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo này của bị cáo N2.
[3] Về các vấn đề khác:
[3.1] Trong quá trình điều tra đã xác định được: Sau khi chiếm đoạt được tiền của các bị hại, N đã dùng 1.900.000.000 đồng trả nợ cho bà Đào Thị L; HKTT: Thôn H, xã T, huyện L, tỉnh Lâm Đồng, trả tiền lãi cho bà Bạch Thị H6 (trú tại TT. Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng) số tiền 245.000.000đ; N2 trả nợ cho bà Vương Thị Thùy T9 (trú tại đường B, phường F, thành phố Đ) số tiền gốc 1.000.000.000đ (một tỷ đồng) và trả tiền lãi 5.000.000đ (Năm triệu đồng); trả cho ông Tống Quang Đ số tiền 153.250.000đ (một trăm năm mươi ba triệu hai trăm năm mươi ngàn đồng); trả cho bà Bạch Thị H6 số tiền lãi 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng); trả cho bà Phạm Thị T8 số tiền lãi 40.000.000đ (bốn mươi triệu đồng); trả cho bà Trần Thị L1 (trú tại N, huyện L, tỉnh Lâm Đồng) số tiền lãi 12.000.000đ (mười hai triệu đồng) trả cho bà Trần Thị V3 (trú tại T, huyện L, tỉnh Lâm Đồng) số tiền lãi 23.100.000đ (hai mươi ba triệu một trăm ngàn đồng); trả nợ cho bà Phạm Thị Tú O1, sinh năm 1977 (HKTT: 792 Quốc lộ B, TT. L, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng) 200.000.000đ (hai trăm triệu đồng). Đây là số tiền do bị cáo phạm tội mà có nhưng Toà án cấp sơ thẩm không đưa những người đã nhận tiền vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và không buộc nộp lại số tiền này là có sự thiếu sót.
[3.2] Đồng thời, trong quá trình điều tra xác định: Thửa đất số 279, tờ bản đồ số 10, diện tích 146,76 m2, trong đó nhà ở tổng diện tích sử dụng là 193,78 m2, diện tích xây dựng là 112,38 m2 ở địa chỉ số B P, Phường B, thành phố Đ theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 4201021774 hiện đang do ông Trần Long N5 đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không đưa ông N5 vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là thiếu sót. Quá trình điều tra đã xác định thửa đất trên đã được Trần Long N5 thế chấp cho Ngân hàng TMCP Á theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất số DLT.BĐCN.36.260719 ngày 26/7/2019 để đảm bảo cho khoản vay 4,9 tỷ đồng theo Hợp đồng tín dụng số DLT.CN.480.260719 cùng ngày. Tuy nhiên trong quá trình điều tra, xét xử sơ thẩm đã không đưa Ngân hàng TMCP Á vào tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan làm ảnh hưởng tới quyền, nghĩa vụ hợp pháp của Ngân hàng. Ngoài ra thửa đất này còn liên quan đến tranh chấp về hợp đồng cọc đã được giải quyết bằng bản án số 24/2021/DS-ST ngày 29/6/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt nên sau khi giải quyết các quan hệ về dân sự, tranh chấp cọc nếu có thì tài sản còn lại sẽ giành để bồi thường cho bị hại theo quy định.
Do có những sai sót như trên nên cần thiết phải hủy một phần bản án sơ thẩm.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. [5] Về án phí hình sự phúc thẩm:
Do Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Hồ Thụy Thảo N, Nguyễn Thị Ái N2 nên các bị cáo Hồ Thụy Thảo N, Nguyễn Thị Ái N2 phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định pháp luật.
Do Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Nguyên V1 nên bị cáo V1 không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 348; điểm b, c Khoản 1 Điều 355; Điều 357; Điều 358 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015;
1/ Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với phần kháng cáo trách nhiệm dân sự của bị cáo Nguyễn Nguyên V1.
2/ Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Hồ Thụy Thảo N, Nguyễn Thị Ái N2; chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Nguyên V1; sửa một phần bản án sơ thẩm về phần hình phạt của bị cáo Nguyễn Nguyên V1.
3/ - Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Hồ Thụy Thảo N mức án 15 (mười lăm) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt giam thi hành án.
- Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Ái N2 mức án 13 (mười ba) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt giam thi hành án, được trừ thời gian tạm giam từ ngày 20/12/2019 đến ngày 18/11/2020 vào thời gian chấp hành hình phạt tù.
- Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 2 Điều 54; Điều 38; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Nguyên V1 mức án 09 (chín) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt giam thi hành án, được trừ thời gian tạm giam từ ngày 20/12/2019 đến ngày 22/01/2020 vào thời gian chấp hành hình phạt tù.
4/ Hủy một phần bản án sơ thẩm về dân sự liên quan kê biên tài sản để đảm bảo thi hành án của bản án sơ thẩm liên quan đến Thửa đất số 279, tờ bản đồ số 10, diện tích 146,76 m2, trong đó nhà ở tổng diện tích sử dụng là 193,78 m2, diện tích xây dựng là 112,38 m2 ở địa chỉ số B P, Phường B, thành phố Đ. Giao hồ sơ vụ án về cho Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng điều tra, giải quyết lại phần này theo đúng quy định pháp luật.
5/ Về án phí: Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí tòa án;
Các bị cáo Hồ Thụy Thảo N, Nguyễn Thị Ái N2, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.
Bị cáo Nguyễn Nguyên V1 không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
6/ Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 10/2023/HS-PT
Số hiệu: | 10/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 09/01/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về