Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 04/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 04/2022/HS-ST NGÀY 18/01/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 18/01/2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận N, thành phố H, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 343/TLST-HS ngày 27/12/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/QĐXXST-HS ngày 09/01/2023 đối với bị cáo:

Nguyễn Đức A, sinh năm: 1995; HKTT: Số 125 Phạm Ngũ Lão, phường Quang Tr, TP. H, tỉnh H; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Con ông: Nguyễn Việt H, sinh năm: 1973 (đã chết) và bà: Nguyễn Thị T, sinh năm: 1973; Gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con cả; Bị cáo chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo đầu thú, tạm giữ từ ngày 11/10/2022. Hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam Số 1 – Công an thành phố H, số giam : 4980B2/8.

Bị hại: chị Đinh Thị H - SN: 1999;

NKTT: thôn Phi Liệt, xã L, huyện V, tỉnh H;

Chỗ ở: số 27, ngõ 63 đường L, phường M, quận N, TP H. Có mặt tại phiên tòa

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Chị Đinh Thị H và Nguyễn Đức A cùng làm việc Công ty xây dựng T (trụ sở tại tòa nhà MHDI số 68, ngõ 28 đường Hàm Nghi, phường C, quận N, TP H). Chị H làm lễ tân còn Đức A làm nhiệm vụ an ninh của Công ty. Quá trình làm việc chị H và Đức A nảy sinh tình cảm và yêu nhau khoảng giữa tháng 3 năm 2021.

Do thiếu tiền tiêu sài cá nhân, thấy chị H có tài sản nên Đức A nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản của chị H để lấy tiền chi tiêu. Ngày 07/4/2021, Đức A hỏi mượn chị H chiếc máy tính (Laptop) nhãn hiệu Dell Latitude E7240 cho em gái là Nguyễn Minh T - là em gái của Đức A mượn để học qua mạng (mục đích để mang đi cắm đặt lấy tiền tiêu sài) do tin tưởng nên chị H đồng ý và đưa laptop cho Đức A (tại công ty nơi hai người làm việc). Sau khi nhận được máy tính, Đức A mang về phòng trọ tại địa chỉ số 118 đường Nguyễn Đổng C, phường C, quận N, TP H (là địa chỉ ở trọ) để và tìm nơi cầm cố, lúc này chị T thấy Đức A có Laptop để nên hỏi mượn để T sử dụng vào việc học tập, Đức A đồng ý cho T sử dụng trong thời gian 2 ngày để học tập và nói đây là Laptop của chị H. Sau hai ngày Đức A nói với chị T là H lấy lại Laptop để làm việc, tuy nhiên thực tế Đức A lấy laptop và mang đến cửa hàng cầm đồ số 240 phố L, phường Đống Mác, quận Hai Bà Trưng, H cầm cố cho anh Nguyễn Quang L (sinh năm: 1985; HKTT: số 106 phố L, phường Đống Mác, quận Hai Bà Trưng, H) lấy 3.000.000 đồng. Anh L viết giấy cầm đồ thỏa thuận cầm trong thời gian 10 ngày, tính lãi 1.000 đồng/1triệu/1ngày. Hết thời gian 10 ngày thì trả tiền gốc và tiền lãi để lấy lại Laptop, Đức A ký nhận và giữ lại bản gốc có chữ ký của hai bên. Sau đó, Đức A không quay lại lấy laptop và vứt bỏ giấy cầm đồ. Số tiền cầm cố máy tính Đức A sử dụng vào chi tiêu cá nhân hết, theo thỏa thuận sau 30 ngày, Đức A không lấy lại tài sản, anh L đã bán chiếc Laptop với giá 3.200.000 đồng cho khách hàng, anh L không rõ nhân thân của khách.

Ngày 22/04/2021, do thiếu tiền nên Đức A nảy sinh ý định chiếm đoạt xe của chị H. Đức A đã hỏi đổi xe Honda Lead BKS: 89E1-xxxxx (cùng đăng ký xe, bảo hiểm xe) của H để Đức A chở bà T về quê (do xe có cốp rộng) và đưa xe honda SH của Đức A cho chị H làm phương tiện đi lại. Chị H đồng ý đổi trong thời gian 03 ngày, chị H đưa xe máy cho Đức A và nhận xe SH của Đức A tại phòng trọ số 118 đường Nguyễn Đổng C, phường C, quận N, TP H. Sau khi nhận xe Honda Lead BKS:

89E1-xxxxx từ chị H, Đức A nhờ bà Nguyễn Thị T đi cắm đặt hộ lấy 25.000.000 đồng và nói dối bà T là H đồng ý mang xe đi cắm đặt. Do bà T bận nên đã gọi điện thoại trước cho anh Nguyễn Tr Th (sinh năm:

1993, HKTT: số 2, ngõ 218 đường Láng, phường T, Đống Đa, H) sau đó bảo Đức A tự mang xe đến quán cầm đồ, địa chỉ số 180 đường Láng, phường T, quận Đống Đa, TP H cầm cố, anh Th nhận cầm xe với giá 25.000.000 đồng cùng giấy tờ xe và viết giấy cắm đặt xe ghi tên bà T, Đức A nhận giấy tờ cầm đồ và chi tiêu cá nhân hết số tiền cắm đặt xe. Sau 03 ngày Đức A lấy lại xe SH của mình và chở H đi làm, chị H yêu cầu Đức A trả xe máy, Đức A nói nhiều lý do khác nhau như đang dịch bệnh Covid bà T ở quê chưa lên H được, bà T bận làm chứng minh nhân dân cho Đức A, mục đích để trì hoãn việc trả lại xe cho chị H. Do chị H liên tục đòi lấy lại xe. Ngày 22/5/2021, Đức A đã thừa nhận với chị H đã cầm cố chiếc xe máy tại địa chỉ số 180 đường Láng, phường T, quận Đống Đa, TP H lấy 25.000.000 đồng. Cếc Laptop đã bán với giá 3.000.000 đồng, không nói địa chỉ bán. Đức A nói lý do gia đình gặp nhiều khó khăn, bản thân có nợ tiền ngoài xã hội, không có khả năng chi trả, đã tự ý mang tài sản của H đi bán và cắm đặt, Đức A hứa sẽ trả lại tài sản cho H sau 02 tuần. Chị H có yêu cầu Đức A dẫn đến cửa hàng cầm đồ để xác định xem có phải Đức A cầm cố xe không. Tại cửa hàng cầm đồ số 180 đường Láng, phường T, quận Đống Đa, TP H. Đức A nói với anh Th chủ cửa hàng cầm đồ, cả hai là con bà T, H là vợ Đức A và xin anh Th cho bà T mấy ngày để gửi tiền lãi sau, anh Th đồng ý. Thời gian này H liên tục yêu cầu Đức A lấy tài sản về trả cho chị H nhưng Đức A không có khả năng để lấy tài sản ra và hứa hẹn rất nhiều lần nhưng không trả lại cho chị H. Do không trả tiền theo thỏa thuận anh Th đã bán chiếc xe máy cho khách đi đường tên Dũng (chưa rõ nhân thân) với giá 26.500.000 đồng.

Đến sáng ngày 27/06/2021, Đức A tiếp tục hỏi mượn điện thoại di động Iphone X màu trắng 64 GB của chị H với lý do mượn điện thoại của chị H để gọi điện thoại cho bạn chuyển khoản tiền để đi chuộc xe máy và máy tính trả cho H (mục đích của Đức A sau khi H cho mượn sẽ mang đi cầm cố để lấy tiền tiêu sài cá nhân), do tin tưởng nên chị H đồng ý đưa điện thoại cho Đức A. Sau khi nhận điện thoại của chị H, Đức A mang đến cửa hàng điện thoại số 134 Nguyễn Đổng C, phường C, quận N, TP H cầm cố cho anh Phan Th Tr (sinh năm: 1998; HKTT: khu 2, thị trấn Tứ Trưng, huyện V, tỉnh V) lấy 5.000.000 đồng, chị H thấy Đức A đi lâu không về, gọi hỏi Đức A không nghe máy. Khoảng 17h50 cùng ngày Đức A gọi lại cho chị H và nói đã cầm cố điện thoại Iphone X của H, Đức A hứa đến ngày 29/6/2021 sẽ lấy tất cả tài sản về trả, do không có tiền để chuộc tài sản trả cho chị H nên Đức A tắt máy vứt bỏ sim số 090464xxxx. Khoảng 15 ngày sau Đức A quay lại cửa hàng lấy lại điện thoại và sử dụng không nói cho H biết, Đức A bỏ đi lang thang sau đó bị rơi mất chiếc điện thoại trên (không xác định được vị trí rơi điện thoại ở đâu). Sau đó Đức A ra Quảng Ninh làm cửu vạn. Đầu tháng 9 năm 2022, về làm bảo vệ tại B1709, Vinhomes Garadena, phường C, quận N, TP H và cư trú tại số 49, ngõ 36, đường Hàm Nghi, phường C, quận N, TP H.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 339 ngày 06/8/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự quận N xác định:

- 01 xe máy nhãn hiệu Honda Lead, màu đen – đỏ, BKS: 89E1 – xxxxx, số khung 7917HY407611, số máy: JF79E0258815 trị giá 32.000.000 đồng;

- 01 laptop hiệu Dell Latitude E7240 màu đen – trắng trị giá 7.500.000 đồng;

- 01 điện thoại nhãn hiệu Iphone X, 64Gb, màu trắng trị giá 8.000.000 đồng.

Tổng trị giá tài sản là 47.500.000 đồng.

Ngày 10/10/2022, Nguyễn Đức A đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận N đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội như trên ngoài ra còn khai nhận, trong thời gian yêu nhau Đức A còn vay chị H số tiền 36.800.000 đồng (không viết giấy tờ gì), ngày 22/5/2021, Đức A vay 36.800.000 đồng của chị Phạm Thị Diễm M (SN: 1995, HKTT: xóm 14, thôn Hậu Ái, xã Vân Canh, Hoài Đức, TP. H – nhân viên cùng làm việc tại Công ty T) trong thời hạn 02 ngày để trả cho chị H, chị M đồng ý và đưa số tiền 36.800.000 đồng cho H, đến hạn trả, do Đức A không có tiền nên đã viết giấy biên nhận vay tiền hẹn đến ngày 30/5/2021 hoàn trả tuy nhiên đến nay Đức A chưa hoàn trả số tiền trên cùng 4.000.000 đồng vay cá nhân (không viết giấy tờ) cho chị M.

Đối với bà Nguyễn Thị T – mẹ ruột của Đức A. Khi Đức A mang xe máy của chị H về nhờ bà T cầm cố, bà T không biết việc Đức A cầm cố xe không được sự đồng ý của chị H, bà T không sử dụng hay hưởng lợi từ số tiền cầm cố xe, do đó Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.

Đối với anh Nguyễn Quang L, Nguyễn Tr Th và anh Phan Th Tr (những người nhận cầm cố tài sản), khi nhận cầm cố các anh L, Th, Tr không biết đây là tài sản do Đức A phạm tội mà có nên Cơ quan điều tra không xem xét xử lý.

Đối với số tiền 40.800.000 đồng, Đức A vay của chị Phạm Thị Diễm M là quan hệ dân sự, do đó không đề cập xử lý.

Về dân sự:

Chị Đinh Thị H yêu cầu Nguyễn Đức A bồi thường số tiền 47.500.000 đồng tiền trị giá tài sản mà Đức A lừa đảo chiếm đoạt xe của chị H.

Tại bản cáo trạng số 02/CT-VKS ngày 23/12/2022 Viện kiểm sát nhân dân quận N, thành phố H đã truy tố Nguyễn Đức A về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã truy tố và xin được giảm nhẹ hình phạt.

Đại điện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo theo nội dung bản cáo trạng, sau khi phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Khoản 1 Điều 174; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g, khoản 1 điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Đức A từ 18 đến 24 tháng tù.

Về dân sự: Áp dụng Điều 584, 585, 586, 589 Bộ luật Dân sự, buộc Bị cáo bồi thường cho bị hại số tiền 47.500.000 đồng trị giá tài sản đã chiếm đoạt.

Về vật chứng: không Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an quận N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Tại quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã khai nhận: Đã thực hiện 03 vụ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau:

Vụ thứ nhất: Ngày 07/04/2021, Bị cáo Đức A hỏi mượn chị H chiếc máy tính (Laptop) nhãn hiệu Dell Latitude E7240 cho em gái của Đức A mượn để học qua mạng, chị H đồng ý và đưa laptop cho Đức tại địa chỉ số 118 đường Nguyễn Đổng C, phường C, quận N, TP H (là địa chỉ ở trọ) để và tìm nơi cầm cố. Sau hai ngày bị cáo lấy laptop và mang đến cửa hàng cầm đồ số 240 phố L, phường Đống Mác, quận Hai Bà Trưng, H cầm cố với giá 3.000.000 đồng.

Vụ thứ hai: Ngày 22/04/2021, bị cáo Đức A đã hỏi đổi xe Honda Lead BKS: 89E1-xxxxx (cùng đăng ký xe, bảo hiểm xe) của chị H và đưa xe honda SH của bị cáo cho chị H làm phương tiện đi lại. Cả hai đổi xe tại phòng trọ số 118 đường Nguyễn Đổng C, phường C, quận N, TP H. Sau khi nhận xe từ chị H, bị cáo nhờ mẹ là bà Nguyễn Thị T đi đặt hộ lấy 25.000.000 đồng. Sau đó, bị cáo nhận giấy tờ cầm đồ và chi tiêu cá nhân hết số tiền đặt xe.

Vụ thứ ba: Ngày 27/06/2021, Bị cáo Đức A tiếp tục hỏi mượn điện thoại di động Iphone X màu trắng 64 GB của chị H. Sau đó, bị cáo mang đến cửa hàng điện thoại số 134 Nguyễn Đổng C, phường C, quận N, TP H cầm cố lấy 5.000.000 đồng. Khoảng 15 ngày sau bị cáo quay lại cửa hàng lấy lại điện thoại và sử dụng không nói cho chị H biết, sau đó bị cáo bỏ đi lang thang và bị rơi mất chiếc điện thoại trên (không xác định được vị trí rơi điện thoại ở đâu).

Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội, bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 47.500.000 đồng tiền tổng trị giá tài sản bị chiếm đoạt.

[3] Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, theo quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự. Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân quận N truy tố bị cáo là có căn cứ và đúng quy định pháp luật.

[4] Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm hại đến tài sản của công dân được pháp luật hình sự bảo vệ. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội 02 lần trở lên, lợi dụng lòng tin, tình cảm của bị hại để lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Đó là tình tiết tăng nặng được quy định tại điểm g khoản 1 điều 52 Bộ Luật Hình sự.

Do đó cần có mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Hội đồng xét xử xem xét: Tại phiên tòa, bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, bị đầu thú đó là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Từ những phân tích, đánh giá về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cần cách ly bị cáo ra khỏi một thời gian đủ để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo chưa có việc làm ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về dân sự: Buộc bị cáo bồi thường số tiền 47.500.000 đồng trị giá tài sản chiếm đoạt.

[7] Về vật chứng: không

[8] Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Đức A phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Căn cứ theo khoản 1 Điều 174; Điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điểm g khoản 1 điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự. Điều 584, 585, 586, 589 Bộ luật Dân sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức A 33 (Ba mươi ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 11/10/2022.

Về dân sự: Buộc bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường số tiền 47.500.000 đồng cho bị hại chị Đinh Thị H;

Về vật chứng: không

- Về án phí và quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333, điều 337 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 2.375.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo, Bị hại có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

16
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 04/2022/HS-ST

Số hiệu:04/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/01/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về