Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 03/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 03/2023/HS-PT NGÀY 11/01/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 11 tháng 01 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 158/2022/TLPT-HS ngày 16 tháng 11 năm 2022 đối với bị cáo Phạm Thế D do có kháng cáo của bị cáo và Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 84/2022/HS-ST ngày 18 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình.

- Bị cáo có kháng cáo: Phạm Thế D sinh năm 1989 tại tỉnh Thái Bình; nơi cư trú: thôn T, xã A, huyện T1, tỉnh Thái Bình; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; con ông Phạm Thế T2 và bà Mai Thị T3; vợ là: Lê Thị T4 (đã ly hôn); có 01 con; tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân:

+ Bản án hình sự sơ thẩm số 21/2022/HSST ngày 22/3/2022 của Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình xử phạt bị cáo 09 năm 03 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

+ Bản án hình sự số 133/2022/HSST ngày 26/9/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xử phạt bị cáo 04 năm 06 tháng tù về tội “Đánh bạc”.

Bị cáo đang thi hành án theo Quyết định thi hành án phạt tù số 91/2022/QĐ-CA ngày 27/4/2022 của Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình và Quyết định thi hành án phạt tù số 176/2022/QĐ-CA ngày 02/11/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Trong vụ án còn có các bị hại – anh Đinh Quang D1, chị Lại Thị H; anh D1, chị H không có kháng cáo nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Qua tìm hiểu trên mạng xã hội Facebook, Phạm Thế D biết ứng dụng “Kingfun” là ứng dụng đánh bạc đổi thưởng. D sử dụng chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vsmart màu đen của mình truy cập vào trang web “Maxvip.net” tải ứng dụng “Kingfun” về máy. Sau khi tải xong, D vào ứng dụng “Kingfun” đăng ký tên tài khoản đăng nhập là “covid1960” mật khẩu là “bonbon89”, tạo tên nhân vật là “tulanhnhatban” và liên kết số điện thoại 0828222865 của D để rút tiền. Sau đó, D tìm hiểu qua ứng dụng thì biết là để đánh bạc được trên ứng dụng thì phải nạp tiền vào tài khoản “Kingfun” thông qua đại lý cấp 1 để đổi King (đơn vị tiền trong ứng dụng Kingfun), khi nạp 850.000 đồng vào ứng dụng thì đổi được 100.000 King, muốn rút tiền thì 100.000 King rút được 80.000 đồng.

Do muốn chơi tài xỉu qua ứng dụng Kingfun nên khoảng 07 giờ 30 phút ngày 29/9/2021, Phạm Thế D, mang theo 50.000.000 đồng và 01 chiếc nhẫn vàng đến quán “Điện thoại, sim thẻ H1” của anh Đinh Quang D1 ở địa chỉ: thôn D2, xã T5, thành phố T6, tỉnh Thái Bình, bị cáo nói dối anh D1 là nhờ anh D1 chuyển tiền vào số tài khoản 100872905469, ngân hàng Vietinbank, chủ tài khoản Hoang Cong Linh (tài khoản của đại lý cấp 1 Kingfun86) với số tiền lần lượt là 6.350.000 đồng và 63.750.000 đồng để bị cáo mua linh kiện điện tử nên anh D1 đã đồng ý và sử dụng số tài khoản 15001011905933, ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam, chủ tài khoản Lưu Thị H2 (vợ anh D1) để chuyển tiền theo yêu cầu của D. Sau khi anh D1 chuyển tiền xong, D ngồi tại quán anh D1 chơi Tài – Xỉu bằng điện thoại được khoảng 15 phút thì thua hết số King để nạp vào ứng dụng. Vì muốn nạp thêm tiền mua King để chơi tiếp hòng gỡ lại số tiền đã bị thua, nên D đã tiếp tục nói dối anh D1 là: “anh chuyển thêm tiền để em nhập hàng mua đồ điện tử, một lúc nữa khách nhận hàng thì chuyển khoản lại cho anh”, anh D1 lại chuyển tiếp 85.000.000 đồng vào số tài khoản trên đã chuyển tiền trước đó. D tiếp tục chơi Tài - Xỉu và lại bị thua hết 85.000.000 đồng. Sau đó, D lại tiếp tục nói dối anh D1 chuyển thêm tiền để nhập hàng đồ điện tử, để anh D1 tin tưởng, D đã giả vờ nói chuyện điện thoại với nội dung: “Oke, lại lấy tiếp nhé, đợi tí anh chuyển tiền luôn”. Anh D1 nghĩ là D buôn bán đồ điện tử với số lượng lớn nên tiếp tục chuyển khoản thêm 127.500.000 đồng vào số tài khoản trên. D lại tiếp tục mua King chơi Tài - Xỉu và thua hết 127.500.000 đồng.

Một lúc sau, anh D1 giục D trả tiền vì đã chuyển cho bị cáo số tiền lớn, D đã lấy 50.000.000 đồng mang theo đưa cho anh D1. Sau đó, D tiếp tục nói dối anh D1 chuyển khoản thêm tiền để D nhập hàng điện tử, anh D1 vẫn tin tưởng và chuyển tiếp 128.400.000 đồng vào số tài khoản trên, D lại mua King và chơi Tài - Xỉu thua hết 128.400.000 đồng. Trong lúc D chơi Tài - Xỉu, anh D1 nhiều lần giục D trả tiền. Để anh D1 tin tưởng, D đã quy đổi King và chuyển lại tài khoản 15001011905933 của anh D1 nhiều lần, tổng số tiền chuyển lại là 166.780.000 đồng và nói dối anh D1 là bán hàng cho nhiều khách lẻ nên tiền về ít. Bị cáo tiếp tục nói dối anh D1 là có khách hàng lớn yêu cầu nhập đủ hàng thì sẽ thành toán tất cả số tiền trước đó một thể, anh D1 tin tưởng chuyển khoản tiếp cho bị cáo số tiền 127.500.000 đồng.

Đến khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày, anh D1 yêu cầu trả tiền thì bị cáo nói dối là xe hàng đang bị chốt kiểm dịch giữ lại nên chưa chuyển tiền lại được. Bị cáo và anh D1 tính với nhau, bị cáo tháo chiếc nhẫn mang theo đưa cho anh D1 và thống nhất trừ đi 21.720.000 đồng là giá trị chiếc nhẫn, anh D1 đồng ý, tổng số tiền bị cáo còn nợ anh D1 là 300.000.000 đồng. Bị cáo đã gọi điện cho bố đẻ bị cáo là ông Phạm Thế T2 đến trả tiền cho anh D1 nhưng ông T2 nói với anh D1 không có tiền trả nợ cho bị cáo. Khoảng 21 giờ 40 phút cùng ngày, anh D1 trình báo sự việc tại Công an xã Tân Bình, thành phố Thái Bình.

Khoảng 06 giờ 50 phút ngày 23/10/2021, bị cáo D đến cửa hàng tạp hóa của chị Lại Thị H ở thôn Đ, xã P, thành phố T6, tỉnh Thái Bình, biết chị H làm dịch vụ chuyển tiền, nên D nói dối chị H là nhờ chuyển hộ bị cáo số tiền 21.250.000 đồng vào tài khoản ngân hàng MB Bank, số tài khoản 0600188059999, mang tên Truong Van Hai (tài khoản của đại lý cấp 1 KINGLUUDUC99) để nhập phụ tùng xe máy, Chị H tin tưởng, đồng ý và sử dụng tài khoản Viettel Pay Pro 1000154100-XXXXX của chị H chuyển khoản số tiền 21.250.000 đồng vào số tài khoản trên cho bị cáo. Bị cáo ngồi tại quán chị H chơi Tài - Xỉu khoảng 30 phút thì thua hết, bị cáo muốn gỡ số tiền trên nên tiếp tục nói dối chị H chuyển thêm tiền để nhập hàng rồi thanh toán một thể, nhưng chị H không đồng ý và yêu cầu bị cáo trả tiền ngay. Do bị cáo không có tiền nên chị H đã gọi điện cho bố dượng là ông Lê Thanh P1 đến giải quyết. Bị cáo dùng điện thoại của bị cáo nhắn tin vào số điện thoại của ông P1 với nội dung: “Cháu Phạm Thế D xã A, T1 vào ngày 23/10/2021 cháu nợ bác P1 số tiền 21.250.000 đồng hẹn bác nội trong ngày hôm nay cháu gửi bác. Nếu sai bác có quyền kiện cháu ra tòa”. Sau đó bị cáo ra về. Ngày 25/10/2021, chị H trình báo sự việc đến Công an thành phố Thái Bình.

Bản án hình sự sơ thẩm số 84/2022/HSST ngày 18 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình tuyên bố bị cáo Phạm Thế D phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

- Về hình phạt: Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 174, điểm g khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 47, Điều 48, Điều 50, Điều 56 Bộ luật hình sự.

Tuyên phạt: Bị cáo Phạm Thế D 14 (mười bốn) năm tù.

Tổng hợp 09 năm 03 tháng tù của Bản án số 21/2022/HSST ngày 22/3/2022 của Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 23 (hai mươi ba) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 26/10/2021.

Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 31/7/2022, bị cáo kháng cáo đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Ngày 29/7/2022, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình ban hành Quyết định số 01/QĐ-VKSTPTB kháng nghị phúc thẩm đối với bản án hình sự sơ thẩm số 84/2022/HSST ngày 18 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, với nội dung bản án sơ thẩm tuyên bố bị cáo phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là đúng người, đúng tội nhưng Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo 14 năm tù là quá nặng, không phù hợp với tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội gây ra; đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm sửa bản án hình sự sơ thẩm theo hướng giảm hình phạt tù đối với bị cáo Phạm Thế D.

Tại phiên tòa phúc thẩm, Bị cáo D vẫn giữ nguyên kháng cáo đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bị cáo thừa nhận: do bị cáo quá ham mê chơi game nên bị cáo đã không làm chủ được bản thân, để có tiền chơi game bị cáo đã chiếm đoạt tiền của mọi người, làm cho bố mẹ bị cáo phải khổ tâm. Bị cáo đã lừa đảo chiếm đoạt của anh D1 468.400.000 đồng vào ngày 29/9/2021, của chị H 21.250.000 đồng vào ngày 23/10/2011, tổng cộng bằng 489.650.000 đồng nhưng ngay trong ngày 29/9/2021, bị cáo đã trả được cho anh D1 168.400.000 đồng; Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 14 năm tù là quá nặng; nay bị cáo còn phải chấp hành hình phạt tù của Bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy là 09 năm 03 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và Bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình là 4 năm 6 tháng tù về tội Đánh bạc.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình vẫn giữ nguyên kháng nghị, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự, chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình và kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm, giảm hình phạt tù cho bị cáo Phạm Thế D từ 02 năm 03 tháng tù đến 03 năm 03 tháng năm tù.

Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo nói lời sau cùng: bị cáo đã nhận thấy sai lầm của mình, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với xã hội, gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị hại và phù hợp các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ để xác định: Ngày 29/9/2021 và ngày 23/10/2021, để có tiền đánh bạc bằng hình thức chơi Tài – Xỉu trong ứng dụng Kingfun trên điện thoại nên bị cáo đã có hành vi nói dối anh Đinh Quang D1, sinh năm 1980, địa chỉ: thôn T7, xã T5, thành phố T6 và chị Lại Thị H, sinh năm 1982, địa chỉ: thôn Đ, xã P, thành phố T6 là bị cáo đang cần tiền để nhập hàng điện tử, phụ tùng xe máy nên anh D1, chị H tin tưởng đã chuyển tiền cho bị cáo. Anh D1 chuyển cho bị cáo 04 lần tiền với tổng số tiền 468.400.000 đồng vào số tài khoản 100872905469 ngân hàng Vietinbank chủ tài khoản Hoang Cong Linh và chị H đã chuyển cho bị cáo 01 lần tiền với số tiền 21.250.000 đồng vào số tài khoản 0600188059999, ngân hàng MB Bank, chủ tài khoản Truong Van Hai. Bị cáo đã chiếm đoạt tổng số tiền của anh D1 và chị H là 489.650.000 đồng. Quá trình chơi Tài – Xỉu, bị cáo đã chuyển trả anh D1 số tiền 166.780.000 đồng.

Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo D về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội.

[2] Về nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

- Bản thân bị cáo, mặc dù đã được cha mẹ nuôi ăn học hết lớp 12, đã có vợ, con nhưng chỉ vì quá ham mê cờ bạc nên bị cáo đã cùng một lúc thực hiện nhiều hành vi phạm tội và bị xử phạt bằng hình phạt tù có thời hạn; Tòa án cấp sơ thẩm nhận định bị cáo là người có nhân thân xấu là có căn cứ.

- Trong ngày 29/9/2021, bị cáo đã nhiều lần lừa đảo chiếm đoạt tiền của anh D1 và trong ngày 23/10/2021, bị cáo 01 lần lừa đảo chiếm đoạt tiền của chị H nên Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo là “Phạm tội 02 lần trở lên” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự là có căn cứ.

- Quá trình điều tra và xét xử, bị cáo đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình; đã trả lại cho bị hại một phần thiệt hại về tài sản, tại phiên tòa sơ thẩm, bị hại – chị Lại Thị H xin giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, bị cáo có anh trai được Nhà nước tặng Huy chương Chiến sỹ vẻ vang hạng ba nên Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là “Người phạm tội tự nguyện bồi thường” và “Người phạm tội thành khẩn khai báo” quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự là có căn cứ.

[3] Tuy nhiên, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy: ngày 22/3/2022 bị cáo đã bị Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy đã xử 09 năm 03 tháng tù về hành vi lừa đảo chiếm đoạt số tiền 281.500.000 đồng trên địa bàn huyện Thái Thụy, nay lại bị Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình tuyên phạt 14 năm về hành vi lừa đảo chiếm đoạt 489.650.000 đồng của anh D1 và chị H, tổng hợp hình phạt của cả 2 bản án là 23 năm 03 tháng tù là nghiêm khắc nên cần căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo của bị cáo và Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, sửa bản án sơ thẩm, giảm hình phạt tù cho bị cáo D 02 năm 03 tháng tù như đề nghị của Đại diện Việm kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình tại phiên tòa là phù hợp với tính chất, mức độ và hậu quả của hành vi phạm tội của bị cáo; thể hiện chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta.

[4] Do Bản án số 133/2022/HSST ngày 26/9/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình xử phạt cáo 04 năm 06 tháng tù về tội “Đánh bạc” đã có hiệu lực pháp luật nên cần phải tổng hợp hình phạt của bản án này với hình phạt của Bản án số 21/2022/HSST ngày 22/3/2022 của Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình và Bản án số 133/2022/HSST ngày 26/9/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình; buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 3 bản án theo quy định tại khoản 1 Điều 56 và điểm a khoản 1 Điều 55 Bộ luật Hình sự.

[5] Về án phí: Bị cáo kháng cáo được chấp nhận nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015:

1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Thế D và Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình; sửa bản án sơ thẩm số 84/2022/HSST ngày 18 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình về phần hình phạt đối với bị cáo Phạm Thế D như sau:

- Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 174, điểm g khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 50, Điều 38, khoản 1 Điều 56 và điểm a khoản 1 Điều 55 Bộ luật Hình sự.

- Xử phạt bị cáo Phạm Thế D 11 (mười một) năm 09 (chín) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

- Tổng hợp hình phạt 11 (mười một) năm 09 (chín) tháng tù của bản án này với hình phạt 09 năm 03 tháng tù của Bản án số 21/2022/HSST ngày 22/3/2022 của Tòa án nhân dân huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình và hình phạt 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù của Bản án số 133/2022/HSST ngày 26/9/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của ba bản án là 25 (hai mươi lăm) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 26/10/2021.

2. Về án phí: Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án: bị cáo Phạm Thế D không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án 11/01/2023./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

293
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 03/2023/HS-PT

Số hiệu:03/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/01/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về