Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (lừa tuyển dụng người khác đi xuất khẩu lao động) số 02/2024/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 02/2024/HS-PT NGÀY 03/01/2024 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 12 năm 2023 và ngày 03 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 612/TLPT-HS ngày 07 tháng 6 năm 2023 đối với bị cáo Võ Thị Phương A bị Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh xét xử sơ thẩm về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 67A/2022/HS-ST ngày 30/9/2022.

Bị cáo Võ Thị Phương A, sinh ngày 10/10/1988 tại huyện K, tỉnh Hà Tĩnh; nơi đăng ký HKTT: Thôn B, xã T, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh; chỗ ở: Số nhà C, ngách D, ngõ A, đường H, phường T, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh; giới tính: Nữ; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: lao động tự do; con ông Võ Công T và bà Nguyễn Thị C (đều đã chết); chồng là Phạm Thái T1 và có 02 con (con lớn sinh ngày 2020, con nhỏ sinh ngày năm 2022); tiền án, tiền sự: không; bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa cho bị cáo: Ông Võ Ngọc D – Luật sư công ty L1 – Đoàn luật sư thành phố H; địa chỉ: Số B, A, Tập thể Học viện Q2, phường N, quận C, thành phố Hà Nội; có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại:

- Bà Đoàn Thị H, sinh năm 1970; địa chỉ: Tổ dân phố E, thị trấn X, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh; vắng mặt tại phiên tòa.

- Ông Lê Hoài N, sinh năm 1977; địa chỉ: Tổ dân phố E, thị trấn X, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh; vắng mặt tại phiên tòa.

- Anh Phan Xuân D1, sinh năm 1990; địa chỉ: Thôn T, xã X, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh; vắng mặt tại phiên tòa.

- Anh Phạm Ngọc T2, sinh năm 1990; địa chỉ: Thôn T, xã X, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh; vắng mặt tại phiên tòa.

- Chị Dương Thị T3, sinh năm 1994; địa chỉ: Thôn L, xã X, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh; vắng mặt tại phiên tòa.

- Anh Trần Việt Q, sinh năm 1990; địa chỉ: Thôn S, xã M, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh; vắng mặt tại phiên tòa.

- Anh Lê Vạn T4, sinh năm 1993; địa chỉ: Thôn T, xã M, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh; vắng mặt tại phiên tòa.

- Anh Nguyễn Văn H1, sinh năm 1995; địa chỉ: K, phường C, thành phố V, tỉnh Nghệ An; vắng mặt tại phiên tòa.

- Ông Từ Đức H2, sinh năm 1969; địa chỉ: Thôn X, xã T, huyện L, tỉnh Hà Tĩnh; vắng mặt tại phiên tòa.

- Ông Trần Sơn B, sinh năm 1969; địa chỉ: Thôn L, xã T, huyện L, tỉnh Hà Tĩnh; vắng mặt tại phiên tòa.

- Bà Dương Thị L, sinh năm 1973; địa chỉ: Thôn L, xã T, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh; vắng mặt tại phiên tòa.

- Bà Trần Thị N1, sinh năm 1973; địa chỉ: Thôn L, xã T, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh; vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo án sơ thẩm và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Công ty Cổ phần T7 (có trụ sở chính tại phường T, quận H, thành phố Hà Nội) được Bộ L2 cấp Giấy phép hoạt động dịch vụ đưa người đi lao động ở nước ngoài. Tháng 4/2019, Trung tâm xuất khẩu lao động tại Hà Nội (Chi nhánh của Công ty Cổ phần T7) ký hợp đồng lao động và bổ nhiệm Võ Thị Phương A giữ chức vụ Phó Trưởng phòng tư vấn số 6. Đến tháng 5/2019, Võ Thị Phương A tự mở Văn phòng công ty tại số B, đường V, thành phố H và lấy danh nghĩa Giám đốc Công ty Cổ phần T7 Chi nhánh tại Hà Tĩnh (Không đăng ký doanh nghiệp theo quy định) để lừa tuyển dụng người khác đi xuất khẩu lao động. Mặc 2 dù không có khả năng làm thủ tục cho người khác đi xuất khẩu lao động tại các nước Hàn Quốc, Nhật Bản nhưng Võ Thị Phương A đã đưa ra các thông tin gian dối và thực hiện các hoạt động để tạo sự tin tưởng của người khác như tổ chức đưa người lao động ra thành phố Hà Nội khám sức khỏe, thuê giáo viên dạy tiếng Hàn Quốc cho người lao động tại Văn phòng công ty, tổ chức cho người lao động học chứng chỉ hàn xì tại Trường cao đẳng C1, nhờ người khác làm hình ảnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác... Bằng các phương thức, thủ đoạn nêu trên, trong khoảng thời gian từ tháng 5/2020 đến tháng 4/2021, Võ Thị Phương A đã 13 lần lừa đảo chiếm đoạt tổng số tiền 4.011.940.000 đồng của 13 người trên địa bàn các huyện N, C, L, T, tỉnh Hà Tĩnh và thành phố V, tỉnh Nghệ An; cụ thể như sau:

* Hành vi lừa đảo chiếm đoạt 244.000.000 đồng của chị Đoàn Thị H (sinh năm 1970, trú tại tổ dân phố E, thị trấn X, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh):

Khoảng đầu tháng 5/2020, chị Đoàn Thị H biết Võ Thị Phương A nhận làm thủ tục đưa người đi xuất khẩu lao động nên đã liên lạc, trao đổi và được Võ Thị Phương A tư vấn cho con trai chị H là Hồ Quyết T5 làm hồ sơ bằng hình thức đi du học tại Hàn Quốc với chi phí 11.000 USD (tương đương 254.000.000 đồng), gồm: chi phí thủ tục 9.000 USD, chi phí chống trốn 2.000 USD. Sau đó, Võ Thị Phương A nói do hoàn cảnh của chị H khó khăn nên chỉ phải nộp số tiền 244.000.000 đồng. Ngày 22/5/2020, chị H đã nộp 200.000.000 đồng cho Võ Thị Phương A (gồm: chuyển 195.000.000 đồng vào tài khoản số 020100009xxxx của Võ Thị Phương A tại Ngân hàng V và nộp trực tiếp 5.000.000 đồng). Võ Thị Phương A cam kết đến tháng 9/2020 thì Hồ Quyết T5 sẽ có visa đi Hàn Quốc. Sau khi tiếp nhận hồ sơ của Hồ Quyết T5, Võ Thị Phương A gửi hồ sơ cho Công ty Cổ phần T8 (địa chỉ số A, đường P, phường H, thành phố V, tỉnh Nghệ An) nhưng Công ty đã trả lại hồ sơ. Để chị Đoàn Thị H tin tưởng, Võ Thị Phương A tổ chức cho Hồ Quyết T5 học tiếng Hàn Quốc tại Văn phòng công ty. Ngày 27/5/2020, Võ Thị Phương A yêu cầu chị Đoàn Thị H nộp đủ tiền để xin visa nên chị H đã nộp số tiền còn lại là 44.000.000 đồng. Võ Thị Phương A hướng dẫn Hồ Quyết T5 đến Đại sứ quán Hàn Quốc để xin dấu tím (dấu chứng thực hồ sơ của lãnh sự quán) nhưng không được cấp visa. Sau khi nhận tiền của chị Đoàn Thị H, Võ Thị Phương A sử dụng trả nợ và chi tiêu cá nhân.

* Hành vi lừa đảo chiếm đoạt 254.000.000 đồng của anh Lê Hoài N (sinh năm 1997, trú tại tổ dân phố E, thị trấn X, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh):

Khoảng đầu tháng 5/2020, anh Lê Hoài N biết Võ Thị Phương A nhận làm thủ tục đưa người đi lao động tại Hàn Quốc nên đã liên lạc và được Phương 3 A tư vấn nên đi theo diện du học tại Hàn Quốc với chi phí 11.000 USD (tương đương 254.000.000 đồng), gồm: chi phí làm thủ tục 9.000 USD, chi phí chống trốn 2.000 USD. Để anh Lê Hoài N tin tưởng, Võ Thị Phương A yêu cầu anh N đến Đại sứ quán Hàn Quốc tại Hà Nội để làm thủ tục đóng dấu tím (dấu chứng thực hồ sơ của lãnh sự quán). Võ Thị Phương A hứa hẹn, cam kết đến tháng 9/2020 sẽ có visa để đi xuất khẩu lao động nên ngày 22/5/2020, anh Lê Hoài N đã chuyển khoản số tiền 254.000.000 đồng vào tài khoản số 020100069xxxx của Võ Thị Phương A tại Ngân hàng V. Sau khi nhận tiền của Lê Hoài N, Võ Thị Phương A sử dụng trả nợ và chi tiêu cá nhân.

* Hành vi lừa đảo chiếm đoạt 302.900.000 đồng của anh Phan Xuân D1 (sinh năm 1990, trú tại thôn T, xã X, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh):

Khoảng cuối tháng 4/2020, Võ Thị Phương A biết anh Phan Xuân D1 có nhu cầu đi xuất khẩu lao động tại Hàn Quốc, anh D1 có bằng Cao đẳng công nghiệp T nên Võ Thị Phương A tư vấn cho anh D1 đi Hàn Quốc theo diện E7 (Kỹ sư đặc biệt) với chi phí 13.000 USD (tương đương 302.900.000 đồng), gồm: chi phí làm thủ tục 11.000 USD, chi phí chống trốn 2.000 USD với mức lương từ 40 đến 50 triệu đồng/tháng. Ngày 26/6/2020, Phương A đến nhà riêng anh D1 thu số tiền đặt cọc là 120.000.000 đồng với lý do để xin mã “code” (có nghĩa là thông tin của anh D1 đã được chuyển sang Hàn Quốc xin cấp visa và phía Hàn Quốc đã đồng ý cấp visa, chỉ cần cầm mã code lên Đại sứ quán sẽ lấy được visa) và hứa hẹn, cam kết trong tháng 9/2020 sẽ có visa. Ngày 18/8/2020, Phương A đưa ra lý do và yêu cầu nộp thêm 150.000.000 đồng để đi dán visa nên anh D1 đã nộp 150.000.000 đồng cho Phương A. Ngày 16/9/2020, Võ Thị Phương A yêu cầu nộp thêm tiền để hoàn tất việc xin visa nên anh D1 tiếp tục nộp thêm số tiền 32.900.000 đồng cho Phương A. Sau khi nhận tiền của anh Phan Xuân D1, Võ Thị Phương A sử dụng trả nợ và chi tiêu cá nhân.

* Hành vi lừa đảo chiếm đoạt 296.300.000 đồng của anh Phạm Ngọc T2 (sinh năm 1990, trú tại thôn T, xã X, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh):

Khoảng đầu tháng 4/2020, Võ Thị Phương A biết anh Phạm Ngọc T2 có nhu cầu đi xuất khẩu lao động tại Hàn Quốc, anh T2 có bằng Cao đẳng địa chính nên Phương A đã tư vấn cho anh T2 đi Hàn Quốc theo diện E7 (Kỹ sư đặc biệt) sẽ được nhận lương cao với chi phí 13.000 USD, gồm: chi phí làm thủ tục 11.000 USD, chi phí chống trốn 2.000 USD. Tháng 7/2020, sau khi anh Phạm Ngọc T2 đi khám sức khỏe để làm thủ tục đi xuất khẩu lao động thì Võ Thị Phương A đến nhà anh T2 thu 100.000.000 đồng tiền đặt cọc và hứa hẹn, cam kết đến ngày 16/9/2020 anh T2 sẽ có visa. Đến ngày 18/8/2020, Võ Thị Phương 4 A đưa ra thông tin gian dối là anh T2 đã có mã “code” (có nghĩa là thông tin của anh T2 đã được chuyển sang Hàn Quốc xin cấp visa và phía Hàn Quốc đã đồng ý cấp visa, chỉ cần cầm mã code lên Đại sứ quán sẽ lấy được visa) và yêu cầu nộp thêm tiền nên anh T2 đã nộp số tiền 146.300.000 đồng cho Võ Thị Phương A. Ngày 14/9/2020, Võ Thị Phương A tiếp tục nói dối là chuẩn bị có visa, cần nộp thêm tiền nên anh T2 đã nộp 50.000.000 đồng cho Phương A. Sau khi nhận tiền của anh Phạm Ngọc T2, Võ Thị Phương A sử dụng trả nợ và chi tiêu cá nhân.

* Hành vi lừa đảo chiếm đoạt 185.140.000 đồng của chị Dương Thị T3 (sinh năm 1994, trú tại thôn L, xã X, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh):

Khoảng đầu tháng 6/2020, Võ Thị Phương A biết chị Dương Thị T3 có nhu cầu đi xuất khẩu lao động tại Hàn Quốc nên đã tư vấn cho chị T3 đi theo diện du học thời hạn 03 năm với mức phí 11.000 USD (tương đương 254.000.000 đồng), gồm: chi phí làm thủ tục 9.000 USD, chi phí chống trốn 2.000 USD, mức lương từ 40 đến 50 triệu đồng/tháng. Ngày 22/6/2020, Võ Thị Phương A đưa ra thông tin gian dối là có thư mời của trường tại Hàn Quốc nên yêu cầu chị T3 nộp tiền cọc, cam kết đến ngày 16/10/2020 sẽ có visa nên chị T3 đã giao nộp 127.400.000 đồng cho Võ Thị Phương A. Ngày 20/8/2020, Võ Thị Phương A đưa ra thông tin gian dối là đã có mã “code” (nghĩa là thông tin của chị T3 đã được chuyển sang Hàn Quốc xin cấp visa và phía Hàn Quốc đã đồng ý cấp visa, chỉ cần cầm mã code lên Đại sứ quán sẽ lấy được visa) và yêu cầu nộp thêm tiền để đi dán visa nên chị T3 đã giao nộp 57.740.000 đồng cho Phương A. Sau khi nhận tiền của chị T3, Võ Thị Phương A sử dụng trả nợ và chi tiêu cá nhân.

* Hành vi lừa đảo chiếm đoạt 348.000.000 đồng của anh Trần Viết Q1 (sinh năm 1990, trú tại thôn S, xã M, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh):

Khoảng đầu tháng 7/2020, Võ Thị Phương A biết anh Trần Viết Q1 có nhu cầu đi xuất khẩu lao động tại Hàn Quốc nên đã tư vấn cho anh Q1 đi gói lao động theo diện E7-3 (Kỹ sư đặc biệt) làm hàn xì cơ khí trên tàu biển với mức lương khoảng 40 đến 50 triệu đồng/tháng với chi phí 14.000 USD (tương đương 324.000.000 đồng), gồm: chi phí làm thủ tục 12.000 USD, chi phí chống trốn 2.000 USD. Ngày 27/7/2020, Võ Thị Phương A đến nhà anh Trần Viết Q1 thu tiền đặt cọc 174.000.000 đồng, viết giấy nộp tiền cam kết đến tháng 10/2020 là có visa. Ngày 18/8/2020, Võ Thị Phương A đưa ra thông tin gian dối là để có visa sớm thì anh Q1 phải nộp thêm 174.000.000 đồng nên anh Q1 đã giao nộp 5 cho Phương A số tiền 174.000.000 đồng. Sau khi nhận tiền của anh Q1, Võ Thị Phương A sử dụng trả nợ và chi tiêu cá nhân.

* Hành vi lừa đảo chiếm đoạt 348.000.000 đồng của anh Lê Vạn T4 (sinh năm 1993, trú tại thôn T, xã M, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh):

Khoảng đầu tháng 7/2020, Võ Thị Phương A biết anh Lê Vạn T4 có nhu cầu đi xuất khẩu lao động tại Hàn Quốc nên đã tư vấn cho T4 đi gói lao động theo diện E7-3 (Kỹ sư đặc biệt) làm hàn xì cơ khí trên tàu biển với mức lương khoảng 40 đến 50 triệu đồng/tháng với chi phí hết 14.000 USD, gồm: chi phí làm thủ tục 12.000 USD, chi phí chống trốn 2.000 USD. Ngày 27/7/2020, Võ Thị Phương A đến nhà anh Lê Vạn T4 nhận hồ sơ cùng số tiền đặt cọc là 174.000.000 đồng và cam kết đến ngày 16/9/2020 sẽ có visa. Ngày 16/8/2020, Võ Thị Phương A nhắn tin nói dối với anh T4 là đã có mã “code” (có nghĩa là thông tin của anh T4 đã được chuyển sang Hàn Quốc xin cấp visa và phía Hàn Quốc đã đồng ý cấp visa, chỉ cần cầm mã code lên Đại sứ quán sẽ lấy được visa) và chuẩn bị có visa, đồng thời yêu cầu nộp số tiền còn lại để lấy visa nên ngày 18/8/2020, anh Lê Vạn T4 giao nộp 174.000.000 đồng cho Võ Thị Phương A. Sau khi nhận tiền của anh T4, Võ Thị Phương A sử dụng trả nợ và chi tiêu cá nhân.

* Hành vi lừa đảo chiếm đoạt 106.000.000 đồng của anh Nguyễn Văn H1 (sinh năm 1995, trú tại khối F, phường C, thành phố V, tỉnh Nghệ An):

Khoảng đầu tháng 10/2020, anh Nguyễn Văn H1 biết Võ Thị Phương A nhận làm thủ tục đưa người đi xuất khẩu lao động. Sau khi Võ Thị Phương A tư vấn, đưa ra chi phí đi xuất khẩu lao động tại Hàn Quốc đối với anh H1 là 10.000 USD (tương đương 232.000.000 đồng), gồm: chi phí làm thủ tục 9.000 USD, chi phí chống trốn 1.000 USD. Tin tưởng Võ Thị Phương A nên ngày 22/10/2020, anh Nguyễn Văn H1 nộp 100.000.000 đồng tiền cọc theo yêu cầu của Phương A và Phương A hứa hẹn, cam kết với anh Nguyễn Văn H1 đến tháng 01/2021 sẽ có visa. Sau đó, để tạo sự tin tưởng, Võ Thị Phương A yêu cầu anh Nguyễn Văn H1 đi đến Đại sứ quán Hàn Quốc tại Hà Nội để dán dấu tím (dấu chứng thực hồ sơ của lãnh sự quán). Khi hết thời gian cam kết, Võ Thị Phương A tiếp tục đưa ra thông tin yêu cầu anh Nguyễn Văn H1 nộp thêm 6.000.000 đồng để chứng minh tài chính cho lao động tại Công ty T7. Ngày 13/3/2021, anh Nguyễn Văn H1 nộp thêm 6.000.000 đồng cho Võ Thị Phương A. Sau khi nhận tiền của anh H1, Võ Thị Phương A sử dụng trả nợ và chi tiêu cá nhân.

* Hành vi lừa đảo chiếm đoạt 46.000.000 đồng của anh Từ Đức H2 (sinh năm 1969, trú tại thôn X, xã T, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh):

6 Khoảng đầu tháng 11/2020, anh Từ Đức H2 được Võ Thị Phương A tư vấn đi lao động tại Hàn Quốc làm thuyền viên trên tàu biển với chi phí 2.000 USD (tương đương 46.000.000 đồng), anh H2 sẽ được hưởng mức lương từ 17.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng/tháng. Ngày 14/11/2020, anh Từ Đức H2 nộp số tiền 30.000.000 đồng, Võ Thị Phương A viết giấy nhận tiền, cam kết đến tháng 12/2020 thì anh H2 sẽ được đi làm việc trên tàu. Ngày 16/11/2020, Võ Thị Phương A yêu cầu nộp thêm tiền để làm thủ tục đi làm thuyền viên, anh H2 tin tưởng nên đã giao nộp thêm 16.000.000 đồng cho Phương A. Sau khi nhận tiền của anh H2, Võ Thị Phương A sử dụng trả nợ, chi tiêu cá nhân.

* Hành vi lừa đảo chiếm đoạt 820.000.000 đồng của anh Trần Hậu P (sinh năm 1986, trú tại tổ dân phố A, phường B, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh):

Khoảng cuối tháng 12/2020, các anh Phan Xuân D1, Phạm Ngọc T2, Lê Vạn T4, Trần Viết Q1 liên tục yêu cầu Võ Thị Phương A trả lại tiền đã nộp trước đó, Võ Thị Phương A gặp anh Trần Hậu P đưa ra thông tin gian dối là hiện đang cần tiền chứng minh tài chính cho học sinh du học Hàn Quốc, cần huy động tiền nhằm chuyển trực tiếp vào tài khoản của người lao động tại Công ty cổ phần T7 để kiểm tra. Sau đó, Công ty sẽ rút tiền ra rồi chuyển lại cho Võ Thị Phương A với khoản tiền công cao. Võ Thị Phương A hứa hẹn với anh Trần Hậu P sẽ trả lãi suất cao (3 triệu/ngày/50 triệu đồng), anh P tin tưởng chuyển tiền cho Võ Thị Phương A nhiều lần với tổng số tiền là 220.000.000 đồng.

Ngày 21/01/2021, Võ Thị Phương A tiếp tục gặp anh Trần Hậu P và đặt vấn đề vay mượn số tiền 600.000.000 đồng để chứng minh tài khoản cho lao động và sẽ trả phí 10.000.000 đồng, đồng thời giao xe ô tô Huyndai Tucson biển kiểm soát 38A - 249.98 của Võ Thị Phương A (xe mua trả góp tại Công ty B2 tại thành phố V, tỉnh Nghệ An) cho anh P nhằm làm cho anh P tin tưởng. Đồng thời, để anh P tin tưởng hơn, Võ Thị Phương A liên hệ với một người qua mạng Facebook (không rõ tên, địa chỉ) nhờ làm giấy chứng nhận quyền sử dụng thửa đất mang tên Võ Thị Phương A với diện tích 178,5 m2 ở khối phố H, phường T, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh rồi gửi hình ảnh cho Phương A, sau đó Phương A gửi cho anh P. Tin tưởng, cùng ngày, anh Trần Hậu P chuyển số tiền 540.000.000 đồng vào tài khoản số 020100069xxxx mang tên Võ Thị Phương A tại Ngân hàng V và trực tiếp giao 60.000.000 đồng cho Phương A. Sau khi nhận tiền từ anh P, Võ Thị Phương A sử dụng để trả cho các anh Phan Xuân D1, Phạm Ngọc T2, Lê Vạn T4, Trần Viết Q1 và chi tiêu cá nhân. Ngày 25/01/2021, Võ Thị Phương A đến nhà anh P lấy xe ô tô Huyndai Tucson biển kiểm soát 38A - 7 249.98 đi đến thị trấn T, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh để cầm cố cho một người không quen biết để lấy tiền chi tiêu cá nhân.

* Hành vi lừa đảo chiếm đoạt 300.000.000 đồng của anh Trần Sơn B (sinh năm 1969, trú tại thôn L, xã T, huyện L, tỉnh Hà Tĩnh):

Khoảng giữa tháng 02/2021, Võ Thị Phương A biết anh Trần Sơn B có nhu cầu xin cho con trai là Trần Công M đi xuất khẩu lao động tại Hàn Quốc nên Phương A đến nhà anh B tư vấn cho M đi theo diện du học sinh với mức phí 11.000 USD, gồm: chi phí làm thủ tục 8.000 USD, chi phí chống trốn 3.000 USD, thời hạn 03 năm, với mức lương 30 triệu đồng/tháng. Ngày 24/02/2021, Võ Thị Phương A yêu cầu nộp tiền cọc nên anh B đã giao nộp 120.000.000 đồng cho Võ Thị Phương A và viết giấy nhận tiền, cam kết đến tháng 5/2021 là sẽ có visa. Ngày 10/3/2021, Võ Thị Phương A đưa ra thông tin gian dối là anh Trần Công M đã có mã “code” (có nghĩa là thông tin của cháu M đã được chuyển sang Hàn Quốc xin cấp visa và phía Hàn Quốc đã đồng ý cấp visa, chỉ cần cầm mã code lên Đại sứ quán sẽ lấy được visa) và yêu cầu nộp tiền để xin cấp visa nên anh B đã giao nộp thêm số tiền 41.000.000 đồng cho Phương A. Ngày 15/3/2021, Võ Thị Phương A tiếp tục đưa ra thông tin cần nộp thêm tiền để lấy visa nên anh B đã nộp 139.000.000 đồng cho Phương A. Sau khi nhận tiền của anh B, Võ Thị Phương A sử dụng trả nợ và chi tiêu cá nhân.

* Hành vi lừa đảo chiếm đoạt 175.800.000 đồng của chị Dương Thị L (sinh năm 1973, trú tại thôn L, xã T, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh):

Khoảng cuối tháng 3/2021, Võ Thị Phương A biết chị Dương Thị L có nhu cầu xin cho con trai là Đặng Vỹ T6 đi xuất khẩu lao động tại Nhật Bản nên Phương A tư vấn cho T6 đi Nhật Bản làm nghề vận hành máy với chi phí 182.000.000 đồng, mức lương được hưởng từ 42 đến 45 triệu đồng/tháng. Ngày 02/4/2021, Võ Thị Phương A yêu cầu nộp tiền để thi tuyển đi xuất khẩu lao động tại Nhật Bản làm nghề vận hành máy nên chị Dương Thị L đã nộp 10.800.000 đồng cho Võ Thị Phương A và hứa hẹn, cam kết đến tháng 9/2021 sẽ có visa. Ngày 05/4/2021, Võ Thị Phương A đưa ra thông tin gian dối là con trai chị L đã trúng tuyển, yêu cầu nộp thêm tiền nên chị Dương Thị L đã giao nộp 105.000.000 đồng cho Phương A. Ngày 15/4/2021, Võ Thị Phương A tự đưa ra thông tin Đặng Vỹ T6 đã có visa, yêu cầu chị L nộp thêm tiền nên anh Đặng Vỹ N2 (chồng chị Dương Thị L) đã giao nộp cho Võ Thị Phương A số tiền 60.000.000 đồng. Sau khi nhận tiền, Võ Thị Phương A sử dụng trả nợ và chi tiêu cá nhân.

8 * Hành vi lừa đảo chiếm đoạt 585.800.000 đồng của chị Trần Thị N1 (sinh năm 1973, trú tại thôn L, xã T, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh):

Trong khoảng thời gian từ tháng 4/2021 đến tháng 6/2021, Võ Thị Phương A đã 02 lần lừa đảo chiếm đoạt của chị Trần Thị N1 với tổng số tiền là 585.800.000 đồng, cụ thể:

Khoảng cuối tháng 3/2021, Võ Thị Phương A biết chị Trần Thị N1 có nhu cầu xin cho con trai là anh Nguyễn Xuân B1 đi xuất khẩu lao động tại Nhật Bản. Võ Thị Phương A đến gặp và tư vấn cho chị N1 nên cho B1 đi xuất khẩu lao động tại Nhật Bản làm nghề lái máy thi công trình với chi phí 180.000.000 đồng, trong thời hạn 03 năm, tiền lương từ 38 đến 40 triệu đồng/tháng. Ngày 02/4/2021, Võ Thị Phương A đưa ra thông tin để Nguyễn Xuân B1 thi tuyển và phải nộp tiền cọc nên chị N1 đã nộp 10.800.000 đồng cho Phương A, đồng thời cam kết đến cuối tháng 10/2021 sẽ có visa. Ngày 12/4/2021, Võ Thị Phương A tiếp tục đưa ra thông tin phải nộp thêm tiền để nộp vào tài khoản ngân hàng cho người đi xuất khẩu lao động nên chị N1 đã nộp cho Võ Thị Phương A số tiền 145.000.000 đồng (một lần 105.000.000 đồng và một lần 40.000.000 đồng). Tổng số tiền Phương A1 nhận của chị Trần Thị N1 là 155.800.000 đồng. Sau khi nhận tiền của chị Trần Thị N1, Võ Thị Phương A sử dụng để trả nợ, trả chi phí thuê trụ sở và chi tiêu cá nhân. Để chị Trần Thị N1 tin tưởng, ngày 08/5/2021, Võ Thị Phương A chuyển số tiền 90.000.000 đồng cùng hồ sơ của anh Nguyễn Xuân B1 cho Công ty cổ phần Đ (trụ sở tại Tầng I, tòa nhà M số F đường N, khu đô thị M, quận N, thành phố Hà Nội). Đến giữa tháng 5/2021, Võ Thị Phương A đưa ra thông tin gian dối với chị Trần Thị N1 là cần vay 400.000.000 đồng để mua xe ô tô phục vụ đi lại và hứa hẹn trả lãi suất cao nên ngày 18/5/2021, chị Trần Thị N1 chuyển vào tài khoản số 208878xxxx mang tên Võ Thị Phương A tại ngân hàng V1 số tiền 600.000.000 đồng và nhờ Phương A rút 200.000.000 đồng tiền mặt cho chị N1, cho Phương A vay 400.000.000 đồng. Ngày 22/6/2021, Võ Thị Phương A lại tiếp tục đưa ra thông tin cần tiền để thúc đẩy xử lý việc đi nước ngoài cho con trai chị N1 nên yêu cầu chị N1 cho vay thêm 30.000.000 đồng và hứa hẹn, cam kết đến tháng 8/2021 thì trả lại cho chị N1 đầy đủ số tiền là 430.000.000 đồng. Sau khi nhận tiền của chị Trần Thị N1, Võ Thị Phương A sử dụng trả nợ và chi tiêu cá nhân.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 67a/2022/HS-ST ngày 30/9/2022, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh đã áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm g khoản 1 Điều 52; các điểm b, s, n khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị 9 cáo Võ Thị Phương A 13 (Mười ba) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

- Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự, các Điều 584, 585, 586, 589 Bộ luật Dân sự, buộc bị cáo Võ Thị Phương A tiếp tục bồi thường tổng số tiền 2.138.940.000 đồng (Hai tỷ một trăm ba mươi tám triệu chín trăm bốn mươi ngàn đồng) cho các bị hại, cụ thể:

+ Bà Đoàn Thị H, sinh năm 1970, địa chỉ: Tổ dân phố E, thị trấn X, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh, số tiền 159.000.000 đồng.

+ Ông Lê Hoài N, sinh năm 1977, địa chỉ: Tổ dân phố E, thị trấn X, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh, số tiền 189.000.000 đồng.

+ Anh Phan Xuân D1, sinh năm 1990, địa chỉ: Thôn T, xã X, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh, số tiền 212.900.000 đồng.

+ Anh Phạm Ngọc T2, sinh năm 1990, địa chỉ: Thôn T, xã X, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh, số tiền 96.300.000 đồng.

+ Chị Dương Thị T3, sinh năm 1994, địa chỉ: Thôn L, xã X, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh, số tiền 145.140.000 đồng.

+ Anh Trần Việt Q, sinh năm 1990, địa chỉ: Thôn S, xã M, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh, số tiền 58.000.000 đồng.

+ Anh Lê Vạn T4, sinh năm 1993, địa chỉ: Thôn T, xã M, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh, số tiền 200.000.000 đồng.

+ Anh Nguyễn Văn H1, sinh năm 1995, địa chỉ: K, phường C, thành phố V, tỉnh Nghệ An, số tiền 61.000.000 đồng.

+ Ông Từ Đức H2, sinh năm 1969, địa chỉ: Thôn X, xã T, huyện L, tỉnh Hà Tĩnh, số tiền 46.000.000 đồng.

+ Ông Trần Sơn B, sinh năm 1969, địa chỉ: Thôn L, xã T, huyện L, tỉnh Hà Tĩnh, số tiền 300.000.000 đồng.

+ Bà Dương Thị L, sinh năm 1973, địa chỉ: Thôn L, xã T, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh, số tiền 175.800.000 đồng.

+ Bà Trần Thị N1, sinh năm 1973, địa chỉ: Thôn L, xã T, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh. số tiền 495.800.000 đồng.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 30/09/2022, bị cáo Võ Thị Phương A có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm hình phạt và xin giảm trách nhiệm bồi thường dân sự.

10 Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Võ Thị Phương A khai nhận hành vi phạm tội và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Luật sư bào chữa cho bị cáo có quan điểm cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định đúng tội danh và điều luật áp dụng đối với bị cáo nhưng cho rằng mức hình phạt 13 năm tù mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo là quá nghiêm khắc. Vị luật sư đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận và xem xét những tình tiết giảm nhẹ (bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có nhân thân tốt, bị cáo phạm tội khi đang mang thai và có bố đẻ là người có công với cách mạng (thương binh hạng 4/4); sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo đã bồi thường toàn bộ khoản tiền theo quyết định của bản án sơ thẩm cho người bị hại và được người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bị cáo tích cực tham gia các phong trào của địa phương và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Những người bị hại vắng mặt tại phiên tòa và có đơn đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội có quan điểm: thống nhất về tội danh và điều luật áp dụng đối với bị cáo Võ Thị Phương A; đối với kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, xét thấy sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo đã bồi thường toàn bộ số tiền phải bồi thường theo quyết định của bản án sơ thẩm; được bị hại và đại diện bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt; có thái độ thành khẩn, ăn năn hối cải. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giảm hình phạt cho bị cáo từ 02 năm đến 03 năm tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Võ Thị Phương A có đơn kháng cáo trong hạn luật định theo đúng quy định tại các Điều 331, 332, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự nên kháng cáo của bị cáo là hợp pháp, được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Võ Thị Phương A, Hội đồng xét xử thấy rằng: Về tội danh, điều luật áp dụng, căn cứ vào lời khai của bị cáo tại phiên tòa và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận mặc dù không có khả năng làm thủ tục cho người khác đi xuất khẩu lao động tại các nước Hàn Quốc, Nhật Bản nhưng Võ Thị Phương A đã đưa ra các thông tin gian dối và thực hiện các hoạt động để tạo sự tin tưởng của người 11 khác như tổ chức đưa người lao động ra thành phố Hà Nội khám sức khỏe, thuê giáo viên dạy tiếng Hàn Quốc cho người lao động tại Văn phòng công ty, tổ chức cho người lao động học chứng chỉ hàn xì tại Trường cao đẳng C1, nhờ người khác làm hình ảnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác... Bằng các phương thức, thủ đoạn nêu trên, trong khoảng thời gian từ tháng 5/2020 đến tháng 4/2021, vì muốn có tiền để trả nợ và chi tiêu cá nhân, bị cáo Võ Thị Phương A đã nhiều lần đưa ra các thông tin gian dối để lừa đảo chiếm đoạt tổng số tiền 4.011.940.000 đồng của 13 người bị hại tại các huyện N, C, T, L, thành phố H (tỉnh Hà Tĩnh) và thành phố V (tỉnh Nghệ An). Tòa án cấp sơ thẩm quy kết Võ Thị Phương A phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” thuộc trường hợp “Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên” quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự là đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, bị cáo Võ Thị Phương A thực hiện hành vi phạm tội nhiều lần, mỗi lần đều đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự là chính xác.

[4] Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt, thấy rằng quá trình điều tra, truy tố, xét xử, Võ Thị Phương A đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nhân thân không có tiền án, tiền sự; đã tích cực khắc phục hậu quả (khi xét xử sơ thẩm, bị cáo đã bồi thường cho các bị hại được 1.703.000.000 đồng); bị cáo phạm tội khi đang mang thai và có bố đẻ là người có công với cách mạng (thương binh hạng 4/4). Tòa án cấp sơ thẩm đã cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s, n khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự là phù hợp thể hiện sự khoan hồng của pháp luật. Ở giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, bị cáo đã xuất trình cho Tòa án cấp phúc thẩm các giấy biên nhận tiền giữa bị cáo và các bị hại, đại diện bị hại với tổng số tiền 2.138.940.000 đồng (là khoản tiền bồi thường mà bị cáo còn phải thực hiện theo quyết định của bản án sơ thẩm); đồng thời, bị cáo cũng xuất trình các tài liệu có xác nhận của chính quyền địa phương về việc trước khi phạm tội, bị cáo là công dân tốt, tích cực tham gia ủng hộ phòng chống covid – 19. Tòa án cấp phúc thẩm ghi nhận đây là những tình tiết giảm nhẹ mới, thể hiện sự ăn năn, hối cải của bị cáo trong việc khắc phục hậu quả mà bị cáo đã gây ra.

[5] Về phía bị hại và đại diện bị hại có đơn đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo do bị cáo đã có thái độ ăn năn hối cải;

12 sau khi xét xử sơ thẩm đã bồi thường toàn bộ khoản tiền theo quyết định của bản án sơ thẩm.

[6] Xét thấy bị cáo phạm tội lần đầu, có nhân thân tốt và có hoàn cảnh gia đình khó khăn (phải nuôi con nhỏ); sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo tiếp tục thể hiện thái độ ăn năn, hối cải, được các bị hại và đại diện bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt; bị cáo cũng xuất trình thêm nhiều tình tiết giảm nhẹ mới. Bởi vậy, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội.

[5] Về án phí, căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội “quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án”, bị cáo Võ Thị Phương A không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực thi hành.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo của bị cáo Võ Thị Phương A, sửa quyết định về hình phạt đối với Võ Thị Phương A tại Bản án hình sự sơ thẩm số 67a/2022/HS-ST ngày 30/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm g khoản 1 Điều 52; các điểm b, s, n khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự, xử phạt Võ Thị Phương A 10 (mười) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

2. Về trách nhiệm dân sự, áp dụng khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự, Điều 584, Điều 585, Điều 586 và Điều 589 Bộ luật Dân sự, buộc Võ Thị Phương A bồi thường tổng số tiền 2.138.940.000 đồng (Hai tỷ một trăm ba mươi tám triệu chín trăm bốn mươi ngàn đồng) cho các bị hại, cụ thể:

- Bà Đoàn Thị H, sinh năm 1970, địa chỉ: Tổ dân phố E, thị trấn X, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh, số tiền 159.000.000 đồng.

- Ông Lê Hoài N, sinh năm 1977, địa chỉ: Tổ dân phố E, thị trấn X, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh, số tiền 189.000.000 đồng.

- Anh Phan Xuân D1, sinh năm 1990, địa chỉ: Thôn T, xã X, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh, số tiền 212.900.000 đồng.

- Anh Phạm Ngọc T2, sinh năm 1990, địa chỉ: Thôn T, xã X, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh, số tiền 96.300.000 đồng.

- Chị Dương Thị T3, sinh năm 1994, địa chỉ: Thôn L, xã X, huyện N, tỉnh Hà Tĩnh, số tiền 145.140.000 đồng.

- Anh Trần Việt Q, sinh năm 1990, địa chỉ: Thôn S, xã M, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh, số tiền 58.000.000 đồng.

- Anh Lê Vạn T4, sinh năm 1993, địa chỉ: Thôn T, xã M, huyện C, tỉnh Hà Tĩnh, số tiền 200.000.000 đồng.

- Anh Nguyễn Văn H1, sinh năm 1995, địa chỉ: K, phường C, thành phố V, tỉnh Nghệ An, số tiền 61.000.000 đồng.

- Ông Từ Đức H2, sinh năm 1969, địa chỉ: Thôn X, xã T, huyện L, tỉnh Hà Tĩnh, số tiền 46.000.000 đồng.

- Ông Trần Sơn B, sinh năm 1969, địa chỉ: Thôn L, xã T, huyện L, tỉnh Hà Tĩnh, số tiền 300.000.000 đồng.

- Bà Dương Thị L, sinh năm 1973, địa chỉ: Thôn L, xã T, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh, số tiền 175.800.000 đồng.

- Bà Trần Thị N1, sinh năm 1973, địa chỉ: Thôn L, xã T, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh. số tiền 495.800.000 đồng.

Xác nhận bị cáo Võ Thị Phương A đã bồi thường xong số tiền 2.138.940.000 đồng cho các bị hại.

3. Xác nhận bị cáo đã nộp 74.778.800 đồng án phí dân sự sơ thẩm và 200.000.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm tại Biên lai số 0000932 ngày 25/12/2023 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Hà Tĩnh.

4. Bị cáo Võ Thị Phương A không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

5. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

604
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (lừa tuyển dụng người khác đi xuất khẩu lao động) số 02/2024/HS-PT

Số hiệu:02/2024/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về