Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức (thẻ ngành giả) số 405/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 405/2022/HS-PT NGÀY 31/05/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN, LÀM GIẢ CON DẤU, TÀI LIỆU CỦA CƠ QUAN TỔ CHỨC

Ngày 31 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 90/2021/TLPT-HS ngày 02 tháng 02 năm 2021, đối với bị cáo Nguyễn Đức N, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 458/2020/HS-ST ngày 07 tháng 12 năm 2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.

- Bị cáo có kháng cáo:

Nguyn Đức N, sinh năm 1990; Giới tính: Nam ; ĐKNKTT : 276 Lê Duẩn, phường T, quận Đ, thành phố Hà Nội ; tự khai nơi ở 1: 15/36/207 Bùi Xương Trạch, phường K, quận T, Hà Nội ; nơi ở 2 : Số 9 ngõ 495 Nguyễn Trãi, phường Thanh Xuân Nam, quận T, thành phố Hà Nội ; quốc tịch : Việt Nam ; dân tộc : Kinh ; Tôn giáo : Không ; nghề nghiệp : Nguyên cán bộ công an phường Hàng Bài, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội; trình độ văn hóa :12/12, con ông: Nguyễn Đức T, con bà: Bạch Thị T; vợ : Phạm Thu T có 01 con, sinh năm 2017; tiền án, tiền sự : không ; danh chỉ bản số 000000135 ngày 09/01/2020 tại công an quận C, thành phố Hà Nội; đầu thú, tạm giữ, tạm giam ngày 09/01/2020, hủy bỏ tạm giam 03/6/2020; có mặt.

* Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Đức N: Luật sư Trần Hồng Phúc và Luật sư Nguyễn Hồng Sơn – Văn phòng Luật sư Nguyễn Chiến, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội. Có mặt.

* Bị hại: Công ty TNHH N; địa chỉ: 351 Nguyễn Khang, phường Y, quận C, thành phố Hà Nội.

Ngưi đại diện hợp pháp của bị hại: Ông Ngô Minh P – Giám đốc Công ty TNHH N. Vắng mặt.

Có ông Nguyễn Đức T (là bố của bị cáo) tham gia tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Nguyễn Đức T, sinh năm 1962; trú tại: số 276 Lê Duẩn, phường T, quận Đ, thành phố Hà Nội. Có mặt.

2. Chị Phạm Thu T, sinh năm 1994; trú tại: số 15/36/207 Bùi Xương Trạch, phường K, quận T, thành phố Hà Nội. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Năm 2015, Nguyễn Đức N nguyên là cán bộ Công an phường Hàng Bài, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Khi đó, bản thân Nghĩa chưa được cấp Giấy chứng minh Côngan nhân dân. Do cần tiền chi tiêu, Nghĩa hỏi vay tiền Phương - sinh năm 1982, nhà ở Chung cư FLC, phường Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội (Nghĩa quen biết qua các mối quan hệ xã hội). Phương nói có một người bạn tên Hằng sẽ cho Nghĩa vay tiền nhưng phải đặt Giấy chứng minh Công an nhân dân (gọi tắt là thẻ ngành) để làm tin. Nghĩa nói với Phương mình chưa được cấp, Phương nói có thể giúp Nghĩa làm được thẻ Ngành giả với giá 2.000.000 đồng. Nghĩa đồng ý rồi đưa ảnh thẻ cùng các thông tin cá nhân và 2.000.000 đồng cho Phương. Sau khi có được thẻ ngành giả, Nghĩa mang cầm cố với người tên Hằng để vay 40.000.000 đồng. Đầu năm 2016, Nghĩa đưa số tiền 40.000.000 đồng cùng tiền lãi cho Phương để trả Hằng, chấm dứt quan hệ vay nợ với Hằng. Sau đó, Phương vẫn giữ thẻ ngành giả của Nghĩa và Nghĩa cũng không đòi lại.

Ngày 12/8/2016, Phương điện thoại nhờ Nghĩa đứng tên thuê hộ Phương 01 chiếc xe ô tô tự lái tại Công ty TNHH N (gọi tắt là Công ty Ngô Minh, địa chỉ tại số 351 Nguyễn Khang, phường Y, quận C, Hà Nội) để mang đi cầm cố lấy tiền trả nợ. Do có mối quan hệ thân thiết với Phương và tin tưởng Phương nên Nghĩa đồng ý. Chiều cùng ngày, Nghĩa cùng Phương đến Công ty Ngô Minh để thuê xe ô tô nhãn hiệu Toyota Camry màu đen BKS: 30A-054.74 trong 05 ngày từ ngày 12/8/2016 đến 16/8/2016, giá thuê 1.500.000 đồng/ngày. Để Công ty Ngô Minh tin tưởng giao xe, Phương đưa cho nhân viên Công ty Ngô Minh một giấy chứng minh công an nhân dân giả ghi số 115-124; họ tên: Nguyễn Đức N, đơn vị Công an quận Hoàn Kiếm – thành phố Hà Nội, cấp ngày 03/02/2014. Phương giới thiệu Nghĩa là cán bộ trong ngành công an. Do đã có sự thống nhất, bàn bạc thuê xe để đi cầm cố nên cho dù Nghĩa biết thẻ đó là giả nhưng vẫn nói với Công ty Ngô Minh là mình làm cán bộ Công an để Công ty Ngô Minh tin tưởng cho thuê xe. Nghĩa trực tiếp ký hợp đồng thuê xe số XLT 120816 ngày 12/8/2016 với Công ty Ngô Minh. Sau đó, nhân viên Công ty Ngô Minh là anh Vũ Văn Quyền (SN: 1991, HKTT tại xã Đại Thắng, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định) đã cùngNghĩa đi kiểm tra tình trạng xe ô tô trước khi giao. Sau đó, anh Quyền đã bàn giao xe ô tô cho Nghĩa cùng các giấy tờ liên quan gồm: đăng kiểm xe ô tô (bản chính), giấy chứng nhận bảo hiểm dân sự bắt buộc của chủ xe, giấy biên nhận giữ bản chính đăng ký xe ô tô của ngân hàng VP Bank và biên bản giao nhận xe có chữ ký của Nghĩa. Sau khi có được xe, Nghĩa giao xe ô tô cho Phương để đi cầm cố lấy tiền chi tiêu vào mục đích cá nhân.

Khi hết thời hạn thuê xe ô tô, Phương và Nghĩa thỏa thuận với Công ty Ngô Minh trả tiền thuê và xin gia hạn thuê để che giấu việc đã cầm cố xe ô tô. Đến ngày 18/10/2016 thì Phương và Nghĩa không nộp tiền nữa. Vì vậy, Công ty Ngô Minh làm đơn trình báo đến Công an phường Y, quận C tố giác Nguyễn Đức N chiếm đoạt chiếc xe ô tô Camry BKS: 30A-054.74 thông qua việc ký hợp đồng thuê xe tự lái. Ngày 28/10/2016, tại công an phường Y, ông Nguyễn Đức T (SN: 1962, HKTT: Số 276 Lê Duẩn, phường T, quận Đ, Hà Nội) là bố đẻ Nghĩa, cam kết sẽ khắc phục hậu quả, đề nghị được giải quyết dân sự nên Công ty Ngô Minh có văn bản đề nghị với Công an phường Y quận C không tiếp tục giải quyết đơn tố giác, để hai bên tự thỏa thuận giải quyết với nhau. Tuy nhiên sau đó, Nghĩa và gia đình không khắc phục trả xe ô tô cho Công ty, Công ty không liên lạc được với Nghĩa, liên lạc với ông Nguyễn Đức T thì ông Trọng từ chối trách nhiệm. Ngày 16/8/2017, Công ty Ngô Minh tiếp tục có đơn tố giác Nghĩa gửi đến Công an quận C. Quá trình điều tra, Công an quận C xác định: Nghĩa sử dụng Giấy chứng minh công an nhân dân giả để thuê được xe ô tô của Công ty Ngô Minh, sau đó cầm cố, không trả lại xe và bỏ trốn khỏi nơi cư trú. Công an quận C đã ra Quyết định khởi tố vụ án ngày 28/6/2019; Quyết định khởi tố bị can đối với Nguyễn Đức N ngày 01/10/2019 và Quyết định truy nã Nghĩa ngày 28/11/2019. Đến ngày 09/01/2020, Nghĩa đến Công an quận C đầu thú. Ngày 18/3/2020, vụ án được chuyển lên Cơ quan điều tra Công an thành phố Hà Nội để điều tra theo thẩm quyền.

Ngày 15/01/2020, gia đình Nghĩa đã thống nhất thỏa thuận việc trả tiền thuê xe cho Công ty Ngô Minh là 600.000.000 đồng. Việc trả tiền được chia làm 2 lần: Ngày 15/01/2020, gia đình đã trả Công ty Ngô Minh 300.000.000 đồng. Số tiền 300.000.000 đồng còn lại sẽ được trả sau 12 tháng kể từ ngày 15/01/2020. Ngày 16/01/2020, Công ty Ngô Minh đã làm đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Nguyễn Đức N và đề nghị Cơ quan điều tra truy tìm chiếc xe ô tô trên trả lại cho công ty Ngô Minh.

Tại Cơ quan điều tra: Bị can Nghĩa khai nhận hành vi phạm tội như trên. Nguyễn Đức N trước đây là Cán bộ thuộc Công an quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Trong quá trình công tác chưa được cấp Giấy chứng minh Công an nhân dân. Nguyễn Đức N đã xuất ngũ từ ngày 06/11/2017 theo Quyết định số 2744/QĐ- CAHN-PX13 ngày 06/11/2017 của Giám đốc CATP Hà Nội. Do cần tiền tiêu xài cá nhân nên Nguyễn Đức N đã có hành vi làm giả Giấy chứng minh công an nhân dân, sau đó sử dụng để cầm cố, thuê xe ô tô tự lái và không có khả năng hoàn trả. Nghĩa khai Phương là người sử dụng toàn bộ số tiền, Nghĩa không được hưởng lợi gì.

Kết luận giám định: Quá trình điều tra, Công ty Ngô Minh giao nộp Hợp đồng cho thuê ô tô tự lại và Giấy chứng minh Công an nhân dân mang tên Nguyễn Đức N.

Ngày 18/12/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận C ra Quyết định số 101 trưng cầu giám định đối với chữ ký, chữ viết đứng tên Nguyễn Đức N. Kết luận giám định số 300/KLGĐ-PC09 ngày 11/01/2019 của Phòng PC09- CATP Hà Nội kết luận: Chữ ký, chữ viết đứng tên Nguyễn Đức N trong Hợp đồng thuê xe ô tô tự lái số HĐXTL 120816 với chữ ký, chữ viết của Nguyễn Đức N trên biên bản làm việc tại Công an phường Y là của cùng một người ký và viết ra.

Ngày 16/01/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận C ra Quyết định số 141 trưng cầu giám định đối với Giấy chứng minh Công an nhân dân mang tên Nguyễn Đức N là thật hay giả. Kết luận giám định số 695/KLGĐ- PC54 (Đ4) ngày 22/01/2018 của Phòng PC54-CATP Hà Nội kết luận: Giấy chứng minh Công an nhân dân số 115-124 mang tên Nguyễn Đức N gửi giám định là Giấy chứng minh Công an nhân dân giả, được tạo ra bằng phương pháp in màu kỹ thuật số.

Đối với vật chứng của vụ án là chiếc xe ô tô Toyota Camry BKS: 30A- 054.74:

Tại Kết luận định giá tài sản số 137/TCKH-BBĐGHĐ ngày 06/4/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận C kết luận trị giá tài sản chiếc xe ô tô Camry BKS: 30A-054.74 có giá trị là 818.800.000 đồng (Tám trăm mười tám triệu tám trăm nghìn đồng).

Ngày 20/11/2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận C đã có Thông báo số 21 truy tìm chiếc xe ô tô Camry BKS: 30A-054.74.

Qua xác minh xác định: Chiếc xe ô tô trên có liên quan đến vụ án bắt giữ người trái pháp luật xảy ra tại phường La Khê, quận Hà Đông. Ngày 20/5/2020, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Hà Đông khởi tố vụ án trên, đến nay Công an quận Hà Đông chưa thu giữ được xe ô tô trên.

Ngày 21/5/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Nội đã có văn bản đề nghị Cục đăng kiểm Việt Nam và Phòng Cảnh sát giao thông – Công an thành phố phối hợp điều tra vụ án để thu giữ, xử lý chiếc xe trên khi xe thực hiện các thủ tục đăng kiểm hoặc các thủ tục hành chính có liên quan.

Đối với đối tượng tên “Phương”: Trong quá trình điều tra, bị can Nghĩa khai thường đến gặp Phương tại Phòng 1201, tầng 12, tòa B chung cư FLC – Landmark, tổ 10, phường Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội. Ngày 27/2/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra dẫn giải Nguyễn Đức N tới địa chỉ trên để xác minh. Kết quả: chủ nhà là bà Lê Thị Hải Hồng (SN: 1978, trú tại số 31 Trần Quốc Hoàn, phường Dịch Vọng Hậu, Cầu Giấy, Hà Nội). Bà Hồng khai: Căn hộ số 1201 do vợ chồng bà Hồng mua từ năm 2014, do không có nhu cầu ở nên cho thuê lại. Năm 2016, bà Hồng có cho một người phụ nữ tên Lê Thu Phương (CMND số: 162127695 do Công an thành phố Hà Nội cấp ngày 15/7/2013, địa chỉ: P210, CT5, đơn nguyên 4, phường Mỹ Đình 2, quận C) thuê nhà trong khoảng 10 tháng. Đến nay, do thời gian quá lâu, bà Hồng không còn giữ thông tin gì của Phương. Tiến hành xác minh tại Phòng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an thành phố Hà Nội xác định: không có số chứng minh nhân dân 162127695 và không phải do Công an Hà Nội cấp. Xác minh tại Công an phường Mỹ Đình 2 và Ban quản lý tòa nhà CT5, đơn nguyên 4 xác định: Không có ai tên Lê Thu Phương sinh s ống và đăng ký hộ khẩu tại địa chỉ trên.

Nghĩa khai liên lạc với Phương qua hai số điện thoại là 0976266789 và 0988312666. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh tại Tập đoàn Công nghiệp viễn thông quân đội Viettel xác định chủ thuê bao của số điện thoại 0976266789 là anh Nguyễn Trí Tài (SN: 1988, HKTT: xóm Chiêu, xã Sơn Đồng, huyện Hoài Đức, TP Hà Nội), chủ thuê bao số 0988312666 là ông Ngô Quốc Vương (SN:

1974, HKTT: số 1, Trần Hữu Dực, phường Mỹ Đình 2, quận Nam Từ Liêm, TP Hà Nội). Anh Tài và ông Vương sử dụng hai số điện thoại trên từ năm 2018, cả hai đều không biết gì về thông tin của người sử dụng trước và không biết về đối tượng tên “Phương”.

Do chưa xác định được nhân thân, lý lịch của đối tượng tên “Phương”, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Nội đã có Quyết định số 33 ngày 30 tháng 6 năm 2020 tách toàn bộ tài liệu có trong hồ sơ liên quan đến đối tượng tên Phương để điều tra xử lý sau.

Đối với đối tượng tên “Tân”: Tại Cơ quan điều tra, lời khai của Nguyễn Đức N không thống nhất về việc đối tượng tên Phương đã cầm cố chiếc xe cho ai, ở đâu. Tại biên bản ghi lời khai ngày 03/6/2020, Nghĩa khai không biết Phương đã cầm cố xe cho ai, ở đâu. Tuy nhiên, tại biên bản ghi lời khai ngày 18/6/2020, Nghĩa khai Phương đã cầm cố chiếc xe ô tô cho người tên Tân ở khu vực phường Văn Quán, quận Hà Đông, TP Hà Nội. Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh tại phường Văn Quán, Hà Đông, kết quả không xác định được đối tượng tên “Tân” theo thông tin của Nghĩa cung cấp. Vì vậy, không đủ cơ sở xác định nhân thân, lý lịch đối tượng tên Tân và sự liên quan của Tân đến vụ án.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 458/2020/HSST ngày 07/12/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức N phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức”.

Áp dụng Điểm a khoản 4 điều 174; điểm b khoản 3 điều 341; điểm b,s khoản 1 khoản 2 điều 51; điều 38; điều 54; điều 55 Bộ luật hình sự, xử phạt: Xử phạt: Nguyễn Đức N 09 (chín) năm tù về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. 03(ba) năm tù về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức. Tổng hợp hình phạt của hai tội buộc bị cáo phải chấp hành là 12 (mười hai) năm tù. Hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giam từ 09/01/2020 đến 03/6/2020.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 16/12/2020, bị cáo Nguyễn Đức N kháng cáo cho rằng chưa đủ căn cứ kết tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; yêu cầu định giá lại chiếc xe ô tô; và hình phạt 03 năm tù đối với bị cáo về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức” đối với bị cáo là quá nặng vị bị cáo chỉ làm giả 01 tài liệu; hành vi của đối tượng Phương là chủ mưu và là người đã chiếm đoạt chiếc xe nhưng chưa được làm rõ. Do đó đề nghị hủy bản án sơ thẩm. Ngày 29/12/2020 bị cáo Nguyễn Đức N có đơn bổ sung kháng cáo cho rằng bị cáo sử dụng CMTND để thuê xe chứ không sử dụng giấy chứng minh CAND, và thực tế bị cáo đ ang là Công an nên Công ty đã tin tưởng cho bị cáo thuê xe nên bị cáo không phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Tại phiên tòa phúc thẩm: Nguyễn Đức N bổ sung thêm dung kháng cáo cho rằng tòa án cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiên trọng tố tụng và xử bị cáo không đúng tội danh. Bị cáo nhờ Luật sư trình bầy nội dung cụ thể.

Luật sư Trần Hồng Phúc trình bầy: Bị cáo không phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản vì hành vi không phải do bị cáo thực hiện mà do đối tượng khác thỏa thuận để thuê xe của công ty Ngô Minh, bị cáo chỉ đến ký và nhận chiếc xe, chiếc thẻ “ngành” là giả, phía công ty đã đến kiểm tra xác định bị cáo đang là công an nên mới cho thuê xe. Việc bị cáo phạm tội gì thì do cơ quan tiến hành tố tụng xác định. Việc tòa án cấp sơ thẩm áp dụng điểm b khoản 3 Điều 341 BLHS đối với bị cáo là trùng lặp và quá nặng. Việc định giá tài sản đã có đơn của bị cáo yêu cầu định giá lại nhưng không được chấp nhận, thực tế trị giá chiếc xe theo thỏa thuận chỉ là 600 triệu đồng và bị cáo đã bồi thường xong chứ không phải 818 triệu như định giá. Tòa án không triệu tập nhân viên của công ty Ngô Minh để làm rõ việc họ giao dịch với đối tượng Phương để cho thuê xe và còn thu tiền cho thuê xe từ Phương nhiều lần từ sau khi hết hạn cho thuê xe theo hợp đồng. Vì vậy đã bỏ lọt đối tượng Phương. Nay đề nghị định giá lại chiếc xe, làm rõ vai trò của đối tượng Phương và một số vấn đề liên quan đến việc thu giữ tài liệu trong quá trình tố tụng. Nay luật sư đã sưu tập, khôi phục được dữ kiệu trong điện thoại cũ của bị cáo Nghĩa còn lưu tài khoản Faebook có ảnh và đã đi xác minh được đối tượng Phương chính là Nguyễn Thị Bình, sinh năm 1982 có số CMT và hộ khẩu cụ thể; anh Quyền là người của công ty Ngô Minh xác định đối tượng Bình chính là người giao dịch và trả tiền thuê xe. Do Vậy đề nghị hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại vì đã bỏ lọt tội phạm.Ngoài ra ông Nguyễn Đức T là bố của bị cáo được tặng thưởng nhiều bằng khen, huân huy chương nhưng chưa được xem xét để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, đề nghị được xem xét.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội kết luận:

Kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định, bổ sung kháng cáo của bị cáo tại phiên tòa phù hợp quy định nên cần được chấp nhận để xem xét. Về tội “ Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức” bị cáo chấp nhận và chỉ xin giảm nhẹ hình phạt.

Về nội dung: căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ từ các bút lục từ 145 đến 207 và lời khai của bị cáo tại phiên toà có đủ căn cứ xác định bị cáo nguyên là chiến sỹ công an nhân dân nhưng đã giải ngũ khi vụ án này xảy ra.Bị cáo biết Chứng minh thư công an nhân dân là giả từ khi bị cáo vay tiền, biết đối tượng “Phương” vẫn cầm “thẻ ngành” giả mang tên bị cáo nhưng sau đó vẫn sử dụng để Công ty Ngô Minh tin tưởng cho bị cáo thuê chiếc xe ô tô Camry. Bị cáo là người ký hợp đồng thuê xe và biên bản giao nhận chiếc xe; ngay sau khi nhận xe và giấy tờ xe bị cáo đã giao chiếc xe cho đối tượng “Phương” đi cầm cố. Bản thân bị cáo và ông Nguyễn Đức T (là bố của bị cáo) đã có 03 bản cam kết lập tại Công an phường Y, quận C về việc cam kết khắc phục hậu quả; nhưng sau đó Nghĩa đã thay số điện thoại, bỏ trốn khỏi nơi cư trú nên Cơ quan điều tra đã phải ra quyết định truy nã đối với Nghĩa, sau đó Nghĩa mới ra đầu thú. Nay tài sản không thu hồi được. Do đó có đủ căn cứ xác định tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử và quyết định hình phạt đối với bị cáo là đúng người, đúng tội không oan. Tại cơ quan điều tra bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội; tại phiên tòa bị cáo khai báo không thành khẩn nhưng tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng điểm b,s khoản 1 Điều 51BLHS và phạt bị cáo 09 năm tù là có căn cứ. Về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” bị cáo bị phạt 03 năm tù là phù hợp. Nay không có tình tiết gì khác để chấp nhận kháng cáo; về yêu cầu định giá lại tài sản là không có căn cứ vì Hội đồng định giá thực hiện đúng quy định của tố tụng và không có nghi ngờ về giá tại thời điểm định giá. Đề nghị bác kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên các quyết định của bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hình thức: Đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Đức N kháng cáo đảm bảo về hình thức và trong hạn luật định nên được chấp nhận để xem xét.Tại đơn kháng cáo bổ sung và tại phiên tòa bị cáo thay đổi nội dung kháng cáo kêu oan về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; bị cáo cho rằn bị cáo không phạm tội“Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” còn bị cáo phạm tội gì thì do cơ quan tiến hành tố tụng xác định; bị cáo và Luật sư cung cấp tài liệu theo “Vi Bằng” lập ngày 05/7/2021 của Văn phòng Thừa phát lại Thủ Đô về việc xác định nội dung liên quan đến đối tượng “Phương” lưu trong điện thoại cũ cho là của bị cáo; tài liệu của luật sư xác minh về đối tượng “Nguyễn Thị Bình” nên chấp nhận để xét.

Đại diện Công ty Ngô Minh và người liên quan theo đề nghị của Luật sư bào chữa cho bị cáo đã được toà án cấp phúc thẩm triệu tập hợp lệ nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt và trình bầy không có yêu cầu gì đối với bị cáo trọng vụ án. Vì vậy xét xử vắng mặt theo quy định.

[2] Về nội dung xét kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đức N:

Tại phiên toà phúc thẩm bị cáo Nguyễn Đức N vẫn thừa nhận toàn bộ hành vi như bản án sơ thẩm đã quy kết. Theo đó: bị cáo thừa nhận có nhờ Phương làm chứng minh công an nhân dân giả để vay tiền nhưng thay đổi lời khai cho rằng bị cáo không biết mục đích của Phương thuê xe đi cầm cố. Bị cáo không biết Phương dùng chứng minh công an nhân dân giả mang tên bị cáo cho công ty Ngô Minh để thuê xe, bị cáo không được hưởng lợi gì nên không phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản của công ty Ngô Minh.

Tại cơ quan điều tra bị cáo khai Phương nhờ bị cáo đứng tên thuê xe tự lái để mang đi cầm cố vì Phương đang nợ tiền của nhiều người lao động do công ty của Phương chuyên về đưa người đi làm việc ở nước ngoài. Do nể Phương nên bị cáo đã đồng ý. Tại công ty Ngô Minh bị cáo có xuất trình chứng minh thư nhân dân còn Phương đưa cho nhân viên công ty một chứng minh công an nhân dân giả tên bị cáo. Lời khai này của bị cáo phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ, hợp đồng thuê xe đứng tên bị cáo, chứng minh công an nhân dân tên bị cáo (được giám định là giả), lời khai của các nhân viên công ty Ngô Minh khi làm hợp đồng và giao xe cho bị cáo có cả Phương đi cùng, đến nay xe ô tô chưa thu hồi được. Tại phiên tòa bị cáo thay đổi lời khai nhưng không đưa ra được bằng chứng gì để bác bỏ lời khai tại cơ quan điều tra. Mặt khác tại phiên tòa bị cáo cũng thừa nhận Phương nợ nần nhiều không thuê được xe nên phải nhờ bị cáo đứng tên thuê và bị cáo vẫn biết Phương đang cầm thẻ ngành giả của bị cáo.

Tuy nhiên, căn cứ lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai bị hại và các tài liệu có trong hồ sơ, có đủ cơ sở kết luận:

Năm 2015 Nguyễn Đức N là cán bộ công an phường Hàng Bài, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội nhưng chưa được cấp chứng minh công an nhân dân. Do nhu cầu cần tiền Nghĩa đã có hành vi thuê người làm giả chứng minh công an nhân dân để cầm cố vay tiền. Ngày 12/8/2016 Nghĩa đã cùng đối tượng Phương (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) đến Công ty TNHH N để thuê xe tự lái với mục đích đi cầm cố lấy tiền. Nghĩa đã sử dụng chứng minh công an nhân dân giả làm từ năm 2015 để công ty Ngô Minh tin tưởng cho thuê xe, Nghĩa đã trực tiếp ký hợp đồng thuê và nhận xe ô tô Toyota Camry BKS: 30A-054.74, đến nay xe ô trên không thu hồi được, trị giá xe là 818.800.000 đồng.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo và Luật sư bào chữa cho bị cáo cho rằng nay đã ác định được đối tượng “Phương” qua dữ liệu trong chiếc điện thoại cũ cho là của bị cáo, qua tại liệu do luật sư xác minh theo thông tin này và qua nhận dạng của nhận viên của Công ty Ngô Minh thì đối tượng “Phương” chính là đối tượng có tên là “Nguyễn Thị Bình” có thông tin kèm theo và đề nghị hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại. Hội đồng xét xử thấy: Quá trình điều tra, bị cáo Nghĩa lúc thì khai đối tượng đó có tên là “Thảo” lúc thì khai đối tượng đó tên là “Phương”. Cơ quan điều tra đã tiến hành và đưa Nghĩa đi làm các thủ tục xác minh theo quy định nhưng không xác định được. Do vậy Cơ quan điều tra đã có quyết đinh tách tài liệu đối với đối tượng này điều tra làm rõ sẽ xử lý sau. Vì vậy không có căn cứ để hủy bản án sơ thẩm như yêu cầu của bịc áo và luật sư bào chữa. Nếu có căn cứ thì bị cáo và luật sư có quyền cung cấp thông tin để cơ quan điều tra tiếp tục điều tra để xử lý theo quy định.

Đối với bị cáo Nguyễn Đức N đã được Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm xác định là người ký hợp đồng thuê xe, ký biên bản giao nhận xe của Công ty Ngô Minh bằng tài liệu đã được kết luận là giả; bị cáo đã cam kết thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm đối với chiếc xe đã thuê nhưng không thực nhiện mà bỏ trốn, sau đó ra đầu thú theo quyết định truy nã của cơ quan điều tra nên đã xác định Hành vi của Nguyễn Đức N đã phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015 và tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức” theo điểm b khoản 3 điều 341 Bộ luật hình sự năm 2015” là hoàn toàn có căn cứ.

Do đó, tại bản án sơ thẩm đã nhận định, hành vi của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công ty Ngô Minh với trị giá tài sản lớn, xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính của cơ quan nhà nước, gây mất trật tự trị an xã hội cần phải được xử lý nghiêm khắc nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm.

Vì vậy khi quyết định hình phạt, đã xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra bị thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, tuy tại phiên tòa bị cáo thay đổi lời khai song vẫn thừa nhận hành vi làm giả tài liệu, cơ quan tổ chức và tích cực bồi thường, khắc phục hậu quả. Đến nay bị hại là công ty Ngô Minh đã nhận tiền bồi thường xe không có yêu cầu gì và đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Vì vậy bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b,s khoản 1 khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Từ đó đã quyết định mức hình phạt là phù hợp.

Tại phiên tòa phúc thẩm, Luật sư bào chữa cho bị cáo nêu bố của bị cáo là ông Nguyễn Đức T còn được nhà nước tặng thưởng Huy chương chiến sỹ vẻ vang hạng 3, Huy chương vì sự nghiệp an ninh tổ quốc, Bằng khen của Tổng cục chính trị Công an nhân dân nhưng chưa được tòa án cấp sơ thẩm nêu rõ nên cần áp dụng là tình tiết giảm nhẹ thêm một phần hình phạt cho bị cáo. Do bị cáo chỉ kháng cáo kêu oan, tại phiên tòa dù đã được Hội đồng xét xử giải thích pháp luật nhưng bị cáo kiên quyết không thay đổi nhận thức. Vì vậy không có căn cứ áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 BLHS để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; cần giữ nguyên quyết định về hình phạt đối với cả hai tội đối với bị cáo như Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định.

Kết luận của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại phiên tòa phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[4] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí tòa án; Xử:

1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đức N; giữ nguyên các quyết định của bản án hình sự sơ thẩm số 458/2020/HSST ngày 07/12/2019, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã quyết định:

Cụ thể:

- Áp dụng: Điểm a khoản 4 điều 174; điểm b khoản 3 điều 341; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 54; Điều 55 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Đức N 09 (chín) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. 03 (ba) năm tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức”. Tổng hợp hình phạt của hai tội buộc bị cáo phải chấp hành là 12 (mười hai) năm tù. Hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giam từ 09/01/2020 đến 03/6/2020.

2. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Đức N phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

422
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan tổ chức (thẻ ngành giả) số 405/2022/HS-PT

Số hiệu:405/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về