Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (đưa thông tin giả về lô đất "suất ngoại giao" để lừa đảo nhiều người mua đất) số 60/2024/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 60/2024/HS-PT NGÀY 16/01/2024 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 1202/2023/TLPT-HS ngày 26 tháng 10 năm 2023; do có kháng cáo của các bị hại Trần Thanh H và Lê Văn H1 đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 85/2023/HS-ST ngày 15/9/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang.

* Bị cáo liên quan đến kháng cáo:

Giáp Thị Q, tên gọi khác: Không; sinh năm 1983 tại Bắc Giang;

Nơi cư trú: Tổ dân phố C, Thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang; nơi ở trước khi bị bắt: Thôn T, xã T, thành phố B, tỉnh Bắc Giang; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 3/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; con ông: Giáp Văn Đ, sinh năm 1959 và con bà: Nguyễn Thị H2, sinh năm 1959; có chồng là Lê Trung M, sinh năm 1979 (đã ly hôn năm 2021) và có 02 con; lớn sinh năm 2004, nhỏ sinh năm 2012; gia đình có 03 chị em, bị cáo là thứ nhất; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo đầu thú và bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 30/3/2022 đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh B; có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa cho bị cáo Giáp Thị Q: Luật sư Hà Đình T - Công ty L1, địa chỉ: TDP L2, thị trấn T, huyện Y, tỉnh Bắc Giang. Bị cáo từ chối người bào chữa và tự bào chữa.

* Bị hại có kháng cáo:

1. Anh Lê Văn H1, sinh năm 1991, có mặt;

Trú tại: Thôn Đ, xã Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang..

2. Anh Trần Thanh H, sinh năm 1980, có mặt; Trú tại: Thôn A, xã C, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

* Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bị hại Lê Văn H1, Trần Thanh H: Ông Hoàng Văn S, Luật sư Công ty L3 – thuộc Đoàn luật sư Thành phố H, có mặt.

* Bị hại không kháng cáo được Tòa án triệu tập:

Ông Trần Văn T1, sinh năm 1982, có mặt;

Trú tại: Thôn N, xã T, huyện L, tỉnh Băc Giang.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không kháng cáo được Tòa án triệu tập:

Chị Cao Thị T2, sinh năm 1989, vắng mặt;

Trú tại: Thôn N, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

* Ngoài ra còn một số bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng không kháng cáo, không liên quan đến nội dung kháng cáo nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Giáp Thị Q mở cửa hàng kinh doanh mặt hàng điện nước, điện dân dụng, với số vốn kinh doanh ban đầu là 500.000.000 đồng. Q thuê nhà tại địa chỉ số C, phố B, thị trấn Đ, huyện L làm địa điểm kinh doanh; để có vốn kinh doanh mở rộng quy mô kinh doanh, nên Giáp Thị Q phải đi vay tiền lãi suất cao. Do phải trả lãi suất cao, việc kinh doanh không đủ chi trả tiền lãi vay dẫn đến cuối năm 2019, Q nợ tiền vay của nhiều người (khoảng 7.000.000.000 đồng) và không còn khả năng chi trả. Tuy nhiên, mặc dù biết rõ bản thân không còn khả năng trả các khoản nợ, nhưng để che giấu với các chủ nợ, Q đã đưa ra nhiều thông tin gian dối, không đúng sự thật là bản thân cần tiền để đầu tư kinh doanh; đưa ra các thông tin bản thân có nhiều mối quan hệ họ hàng, quen biết với nhiều người là lãnh đạo các cơ quan Nhà nước của huyện L nên Q biết và có nhiều lô đất dạng “Suất ngoại giao” giá rẻ tại các dự án khu dân cư mới trên địa bàn huyện L để làm cho các bị hại tin tưởng đưa tiền cho bị cáo, tin tưởng đặt cọc tiền mua đất qua trung gian mà Q nhờ bán, rồi nhận tiền đặt cọc. Sau khi nhận được tiền từ các bị hại, Q đã dùng tiền này trả tiền lãi, tiền gốc cho các khoản vay nợ trước của mình. Với hành vi, thủ đoạn trên, trong thời gian từ cuối năm 2019 đến tháng 8/2021, Giáp Thị Q đã chiếm đoạt tổng số tiền 56.437.000.000 đồng (Năm mươi sáu tỷ bốn trăm ba mươi bảy triệu đồng chẵn) của 15 người bị hại, cụ thể như sau:

1. Hành vi chiếm đoạt của bà Trần Thị X, sinh năm 1958, trú tại tổ dân phố V, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang số tiền 2.300.000.000 đồng:

Do có quan hệ quen biết xã hội với nhau. Từ năm 2017, Q nhiều lần vay tiền của bà X với lãi suất vay 2.000 đồng/triệu/ngày, quá trình vay thì Q đều trả gốc và lãi đầy đủ. Tuy nhiên, từ năm 2020 trở đi, biết rõ bản thân đang nợ nhiều tiền của nhiều người và đã mất khả năng trả nợ nhưng Q vẫn vay tiền nhiều lần của bà X với tổng số tiền không trả được là 2.300.000.000 đồng. Quá trình điều tra, bà X đã cung cấp cho Cơ quan điều tra 02 giấy biên nhận vay tiền gồm 01 giấy đề ngày 22/6/2020 thể hiện Q vay số tiền 356.000.000 đồng và 01 giấy đề ngày 14/5/2021 thể hiện Q vay số tiền là 800.000.000 đồng, còn lại giấy tờ khác bà Q không nhớ để ở đâu.

2. Chiếm đoạt của ông Tống Văn Đ1, sinh năm 1967, trú tại tổ dân phố C, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang số tiền 20.000.000 đồng:

Ông Đ1 và Q là hàng xóm ở cùng tổ dân phố; trước đây Giáp Thị Q đã vay của ông Đ1 số tiền 165.000.000đồng để kinh doanh, sau khi vay tiền, Q trả tiền lãi cho ông Đ1 đầy đủ nhưng chưa trả được tiền gốc. Đến khoảng cuối năm 2021, Q tiếp tục hỏi vay tiền của ông Đ1, do không biết Q đang nợ nhiều người và không còn khả năng trả nợ nên ông Đ1 đã cho Q vay số tiền 20.000.000đồng (Q có viết giấy tờ vay, không ghi ngày). Ngoài ra, ông Đ1 khai còn cho Q vay thêm số tiền là 510.000.000 đồng, nhưng ông Đ1 không cung cấp được tài liệu để chứng minh.

Tại Cơ quan điều tra, Q chỉ thừa nhận đã vay và còn nợ của ông Đ1 tổng số tiền là 185.000.000 đồng (gồm số tiền 165.000.000 đồng vay năm 2015 và số tiền 20.000.000đồng vay cuối năm 2021). Số tiền 510.000.000 đồng như ông Đ1 khai, Q không thừa nhận.

3. Chiếm đoạt của anh Nguyễn Trịnh T3, sinh năm 1989, cư trú tại: Tổ dân phố Đ, thị trấn K, huyện L, tỉnh Bắc Giang số tiền 410.000.000 đồng:

Anh Tú và Q có mối quan hệ quen biết xã hội. Tháng 8/2020, Q có hỏi vay tiền của ông Tống Văn Đ1 (đã nêu trên) nhưng ông Đ1 không có tiền nên cho Q mượn 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có diện tích 558m2, mang tên hộ gia đình bà Từ Thị M1 (là mẹ ông Đ1), có địa chỉ tại thôn C, xã T (nay là tổ dân phố C, thị trấn Đ), huyện L để Q dùng thế chấp vay tiền. Ngày 17/8/2020, Q đem giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mượn của ông Đ1 đi thế chấp để vay của anh Trịnh Đình T4 số tiền 410.000.000 đồng, thời hạn vay 03 ngày, lãi suất 2.000 đồng/triệu/ngày, anh T4 soạn sẵn Hợp đồng vay tiền, sau đó Q ký, điểm chỉ vào trong giấy tờ vay tiền. Đến nay, Q đã trả được cho anh T4 180.000.000 đồng, còn đang nợ của anh T4 230.000.000 đồng.

Do Q chưa trả được hết tiền cho anh T4 nên anh T4 vẫn đang giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên hộ gia đình bà Từ Thị M1 mà Q dùng để thế chấp.

4. Chiếm đoạt của chị Trần Thị M2, sinh năm 1980, trú tại thôn A, xã V, huyện L, tỉnh Bắc Giang số tiền 23.442.000.000 đồng:

Chị M2 và Q quen biết và chơi thân với nhau từ khoảng giữa năm 2020. Cũng với thủ đoạn trên, Q giới thiệu Q là cháu của một lãnh đạo Ủy ban nhân dân huyện L và có mối quan hệ với một lãnh đạo Công an huyện L; lãnh đạo Trung tâm phát triển quỹ đất và Cụm C, nên Q biết nhiều lô đất tiêu chí “Suất ngoại giao” tại Khu dân cư Đ, xã B, huyện L; Khu dân cư Đ, thị trấn Đ, huyện L; khu dân cư mới xã P (nay là thị trấn P) huyện L với giá rẻ; Q đang chung tiền làm ăn với những người này, sau khi đặt cọc mua thì chuyển nhượng ngay cho người khác cũng có lãi cao. Q nói với chị M2 là Q sẽ đảm nhiệm việc giao dịch mua, bán đất, còn chị M2 có trách nhiệm huy động tiền đưa cho Q vay để mua những lô đất “tiêu chí” này. Do tin tưởng Q nên chị M2 đã mang giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của gia đình mình đi thế chấp cho người khác để vay tiền, cũng như vay tiền của nhiều người sau đó đưa cho Q vay. Khi đi vay tiền, hai bên lãi suất thỏa thuận miệng 02%/tháng. Sau khi vay được tiền, chị M2 đưa cho Q để đi mua đất, có lần Q viết giấy vay, có lần không viết. Khi đến hạn, nhiều người cho chị M2 vay đã đòi tiền, chị M2 yêu cầu Q trả nhưng Q không có trả. Do nhiều người đến đòi tiền, chị M2 phải tạm lánh khỏi địa phương và nhờ anh Lê Văn H3, sinh năm 1982, trú tại thôn Đ, xã B, huyện L là cháu của chị M2 đứng ra đòi nợ Q giúp chị M2. Do không đòi được tiền của Q nên chị M2 không có tiền trả nợ cho những người chị M2 vay. Sau đó nhiều người đã làm đơn tố cáo chị M2 đến Công an huyện L. Sau đó chị M2, Q và một số người cho vay đã thống nhất việc chuyển khoản nợ của chị M2 sang cho Q nhận nợ; một số người không đồng ý chuyển nợ thì chị M2 đã tổng hợp tiền vay của những người này rồi yêu cầu Q viết giấy vay tiền với chị M2.

Tổng số tiền Giáp Thị Q đã vay và chiếm đoạt của chị Trần Thị M2 với tổng số tiền 23.442.000.000 đồng, đến nay đã trả được tổng số 3.711.000.000 đồng. Hiện còn chiếm đoạt 19.731.000.000 đồng.

5. Chiếm đoạt của ông Chu Văn H4, sinh năm 1976, trú tại thôn Đ, xã B, huyện L, tỉnh Bắc Giang số tiền 8.050.000.000 đồng:

Khoảng cuối năm 2020, ông H4 và Q quen biết nhau. Bằng thủ đoạn trên Q bảo ông H4 đưa cho Q vay tiền để mua đất rồi bán lại kiếm lời; Q sẽ cho ông H4 một lô đất và sẽ trả lãi 2.000 đồng/triệu/ngày. Tin tưởng lời nói của Q là thật, ông H4 đã đồng ý và nhiều lần cho Q vay tiền rồi bị Q chiếm đoạt tổng số tiền 8.050.000.000 đồng, đã trả được 4.400.000.000 đồng, hiện còn 3.650.000.000 đồng chưa trả.

6. Chiếm đoạt của vợ chồng anh Lý Hồng H5, sinh năm 1982, chị Nguyễn Thị P, sinh năm 1990, nơi cư trú: Thôn Đ, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang số tiền 12.500.000.000 đồng:

Q và anh H5 quen biết nhau, khoảng cuối tháng 4/2021, Q đến nhà anh H5 chơi nên quen chị P và biết chị P cũng thường xuyên giao dịch mua, bán đất. Q giới thiệu với anh H5, chị P bản thân là cháu của ông Giáp Văn Ơ, Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện L và có mối quan hệ với một số cán bộ tại Ủy ban nhân dân huyện L và Công an huyện L, nên Q có thể mua được nhiều lô đất dạng “Suất ngoại giao” tại một số dự án như dự án trên địa bàn huyện L, huyện L với giá rẻ, sau đó Q tìm khách mua bán kiếm lời. Trong thời gian này, Q đưa cho anh H5, chị P 01 văn bản cam kết chuyển nhượng của lô đất số 27 OLK2, thuộc dự án khu đô thị M, thị trấn Đ, huyện L để làm tin. Do vậy, vợ chồng chị P, anh H5 hoàn toàn tin tưởng lời Q nói nên đã huy động tiền của nhiều người để đưa cho Q đi mua hộ những lô đất này, Q hứa hẹn một thời gian sẽ đưa tên vợ chồng chị P vào trong hợp đồng góp vốn với chủ đầu tư. Những lần đưa tiền, Q lấy lý do đang vội, không cần phải ghi giấy tờ gì. Đối với dự án khu dân cư mới Đ, Q đã nhắn tin gửi thông tin sơ đồ, vị trí lô đất qua tin nhắn Zalo cho anh H5, hứa hẹn đến đầu tháng 9/2021 sẽ cấp được giấy tờ pháp lý của lô đất tại dự án này nhưng không thực hiện. Cụ thể, vợ chồng anh H5, chị P đã đưa cho Q tổng số tiền là 12.500.000.000 đồng, đến nay đã trả được 5.050.000.000 đồng, hiện còn đang chiếm đoạt số tiền là 7.450.000.000 đồng.

7. Chiếm đoạt của ông Thân Thế C, sinh năm 1958, trú tại tổ dân phố B, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang:

Ông C và Q quen biết nhau. Ngày 22/5/2021, Q hỏi vay ông C số tiền 600.000.000 đồng, thỏa thuận khi nào ông C cần thì báo trước cho Q 02 tháng, hứa hẹn trả gốc làm 02 đợt, ông C viết giấy tờ vay, sau đó Q ký xác nhận. Do cần tiền, ông C có đòi nhiều lần, ngày 14/8/2021, Q cam kết đến ngày 02/9/2021 sẽ trả hết nhưng không trả. Về sau, ông C và Q thống nhất, tính trừ vào việc ông C lấy hàng điện nước của Q quy đổi ra số tiền là 31.000.000 đồng. Như vậy, đến nay Q còn chiếm đoạt của ông C số tiền 569.000.000 đồng.

8. Chiếm đoạt của bà Lương Thị C1, sinh năm 1963, trú tại thôn D, xã B, huyện L, tỉnh Bắc Giang số tiền 1.950.000.000 đồng:

Khoảng đầu tháng 7/2021, bà C1 và Q quen biết nhau thông qua chị Vũ Thị B, sinh năm 1983, trú tại thôn Đ, xã B, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Biết bà C1 làm ở Tổ vay vốn nên Q tiếp cận hỏi vay tiền, khi vay Q nói để làm ăn kinh doanh, mua lô đất tại các dự án trên địa bàn huyện L, thỏa thuận lãi suất là 2.000 đồng/triệu/ngày, hẹn sau 02 đến 03 ngày sẽ trả, và Q thế chấp bằng giấy tờ của xe ô tô tải biển số 19C-12858. Tin tưởng nên bà C1 nhiều lần cho Q vay với tổng số tiền là 1.950.000.000 đồng. Sau khi vay chỉ trả được tiền lãi; ngày 03/6/2021 bà C1 yêu cầu thì Q viết gộp số tiền vay, hẹn 04 ngày sau trả; sau đó Q trả được số tiền là 210.000.000 đồng, còn lại chiếm đoạt số tiền là 1.740.000.000 đồng.

9. Chiếm đoạt của anh Trần Văn T1, sinh năm 1982, trú tại thôn N, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang và những người đặt cọc tiền cho anh T1 để mua đất tại Dự án khu dân cư mới số A, xã T, huyện L, tỉnh Bắc Giang tổng số tiền 7.165.000.000 đồng:

Anh T1 và Q quen biết nhau. Trong khoảng thời gian tháng 7 và tháng 8/2021, Q đưa ra thông tin Q có mối quan hệ rộng với một số lãnh đạo Ủy ban nhân dân huyện L, Công an huyện L nên có biết thông tin của nhiều lô đất “Suất ưu tiên”. Q trao đổi với anh T1 về việc mua đi, bán lại kiểu dạng “lúa non” sẽ kiếm lợi nhuận cao trước khi Chủ đầu tư mở bán chính thức. Sau đó Q đưa ra thông tin về lô đất dạng xuất ngoại giao tại dự án khu dân cư Đ, xã B, huyện L rồi nhờ anh T1 đi vay tiền đưa cho Q mua một số lô đất tại Dự án này; Q nhờ anh T1 đứng ra làm thủ tục bán, nhận tiền đặt cọc, sau đó chuyển lại cho Q để Q mang đi đặt cọc mua những lô đất tại Dự án khu dân cư mới số A, xã T, huyện L; Q cam kết sẽ có đất bàn giao, sau này bán hoặc ký được hợp đồng góp vốn với Chủ đầu tư dự án thì anh T1 được chia tiền hoa hồng (Q trao đổi trực tiếp và nhắn tin qua tài khoản Z cho anh T1 để cung cấp sơ đồ, vị trí thửa đất, giá, số tiền đặt cọc).

Anh T1 tin tưởng nên đã bỏ tiền cá nhân và đi vay tiền của nhiều người đưa cho Q vay; đứng ra làm thủ tục nhận tiền đặt cọc, bán giúp Q một số lô đất tại Dự án khu dân cư mới số A, xã T, huyện L rồi chuyển tiền cho Q. Trước khi giao dịch với người mua đất, nhận tiền đặt cọc, anh T1 liên lạc với Q để xác nhận thông tin về những lô đất bán; số tiền nhận được chuyển cho Q dưới hình thức đưa tiền mặt hoặc chuyển qua tài khoản Ngân hàng của chị Nguyễn Thị T5, sinh năm 1985, trú tại số A, phố T, thị trấn Đ, huyện L để đưa lại cho Q hoặc chuyển cho người khác giúp Q (chị T5 kinh doanh vàng bạc và có nhận làm dịch vụ chuyển tiền). Sau khi chuyển tiền, Q không thực hiện theo cam kết, không có đất bàn giao, không trả lại tiền cho anh T1 nên anh T1 không có tiền trả cho một số người đã vay, đã nhận tiền đặt cọc.

9.1. Chiếm đoạt của anh Trần Văn T1 số tiền 2.415.000.000 đồng:

Trong thời gian từ ngày 15/7/2021 đến ngày 21/7/2021, anh T1 đã bỏ tiền của cá nhân và đi vay tiền của một số người trên địa bàn xã T, huyện L và các xã lân cận sau đó đưa cho Giáp Thị Q với tổng số tiền là 2.415.000.000 đồng để Q mua đất “Suất ngoại giao” tại Dự án khu dân cư mới Đ, xã B, huyện L, cụ thể như sau:

- Ngày 15/7/2021, anh T1 cho Q vay 02 mã vay với tổng số tiền là 800.000.000 đồng (trong đó mã vay 500.000.000 đồng, hẹn ngày 16/7/2021 trả;

mã vay 300.000.000 đồng, hẹn buổi tối cùng ngày trả). Trong lần vay này, Q trả được mã vay 300.000.000 đồng.

- Trong thời gian từ ngày 16/7/2021 đến ngày 21/7/2021, Q vay của anh T1 nhiều lần với tổng số tiền là 1.615.000.000 đồng, do trước đó không trả được nên thống nhất cộng gộp mã vay 500.000.000 đồng vào mã vay này. Sau đó, anh T1 ghi giấy vay thể hiện Q vay tổng số tiền 2.115.000.000 đồng, Q hẹn ngày 24/7/2021 sẽ trả. Sau đó Q trả được 520.000.000 đồng. Như vậy, tổng số tiền đã trả được 820.000.000 đồng; còn đang chiếm đoạt của anh T1 1.595.000.000 đồng.

Q thừa nhận đã trả và chiếm đoạt của anh T1 số tiền nêu trên. Tuy nhiên Q khai vay tiền của anh T1 để kinh doanh điện nước, lãi suất 2.000đồng/triệu/ngày, chứ không phải vay đầu tư đất, đến nay trả tiền lãi được khoảng hơn 200.000.000 đồng và mỗi lần vay phải cắt lại vài chục triệu đồng cho anh T1 nhưng không đưa ra được tài liệu để chứng minh.

Do lời khai của Q và anh T1 có mâu thuẫn, Cơ quan điều tra đã cho đối chất nhưng các bên vẫn giữ nguyên lời khai.

9.2. Thông qua anh Trần Văn T1 chiếm đoạt của anh Nguyễn Văn H6, sinh năm 1982, trú tại số nhà C, phố T, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang số tiền 550.000.000 đồng:

Anh T1 và anh H6 quen biết nhau từ nhỏ. Sau khi được Giáp Thị Q nói chuyện và nhờ bán, anh T1 giới thiệu với anh H6 có một số lô đất suất ngoại giao tại dự án khu dân cư mới số A, xã T, huyện L. Anh H6 đồng ý mua và đặt cọc. Ngày 13/8/2021, anh T1 ký hợp đồng bán cho anh H6 05 lô đất gồm: Lô S, 6, 11, 12 LK02, trị giá 1.100.000.000 đồng/1 lô, thỏa thuận đặt cọc 100.000.000 đồng/lô; Lô số 13 LK01 trị giá là 1.050.000.000 đồng, đặt cọc số tiền 150.00.000 đồng. Tổng số tiền anh H6 đặt cọc cho T1 là 550.000.000 đồng (anh H6 đưa tiền trực tiếp là 400.000.000 đồng và chuyển 150.000.000 đồng qua tài khoản Ngân hàng), hẹn ngày 16/8/2021 sẽ đưa anh H6 ký hợp đồng với chủ đầu tư, đồng thời chuyển thông tin của anh H6 cho Q để làm thủ tục. Sau đó anh T1 đưa trực tiếp cho chị Giáp Thị Q là 400.000.000đồng, còn 150.000.000đồng anh T1 chuyển vào tài khoản số 106000213679 của chị Nguyễn Thị T5 theo yêu cầu của Q. Đến ngày 16/8/2021, anh T1 báo cho Q biết việc anh H6 yêu cầu thực hiện theo thỏa thuận, Q bảo anh T1 cứ trao đổi với anh H6 về việc cho gia hạn thêm 10 ngày nữa, nếu không được sẽ trả lại tiền; sau đó anh T1 làm giấy cam kết hẹn anh H6 10 ngày sẽ bàn giao hồ sơ, giấy tờ của 05 lô đất trên, anh H6 đồng ý.

Ngày 20/8/2021, anh H6 biết anh T1 chuyển số tiền của mình đặt cọc mua 05 lô đất cho Q nên anh H6 gọi cho Q để xác nhận lại. Q hứa hẹn với anh H6 trong thời hạn cam kết sẽ đưa anh H6 đi ký hợp đồng góp vốn với chủ đầu tư. Đến ngày 25/8/2021, là ngày đến hẹn, Q không thực hiện, anh H6 yêu cầu hủy thỏa thuận đặt cọc, không mua lô đất, yêu cầu trả lại tiền đặt cọc. Anh T1 gọi điện báo với Q thì Q nói chắc chắn các lô đất này sẽ ký được hợp đồng với chủ đầu tư, tiền nhận của H6 trước đó Q nói đã nộp cho C2 đầu tư, còn H6 không mua thì bán cho người khác lấy tiền trả cho H6.

Đến ngày 27/8/2021, trước khi bán 04 lô đất gồm: Lô số 5,6,11,12 LK02, nhận đặt cọc của Phạm Thị Thùy D, sinh năm 1977, nơi ĐKHKTT: Tổ dân phố G, phường D, thành phố B; chỗ ở hiện nay: số I, CT1A, Chung cư G, phường T, thành phố B thì anh T1 báo cho Q biết, Q đồng ý. Sau khi nhận đặt cọc của chị D, anh T1 chuyển khoản trả cho anh H6 480.000.000 đồng. Đến ngày 28/8/2021 Q nhờ người tên là C3 là nhân viên giao hàng điện nước của đại lý ở huyện H, tỉnh Bắc Giang (Q khai không nhớ thông tin cụ thể của anh C3) giao hàng cho cửa hàng của Q, chuyển đến tài khoản của T1 số tiền 85.000.000 đồng để trả cho H6, sau đó anh T1 chuyển trả cho anh H6 80.000.000 đồng. Tổng số tiền mà anh T1 đã trả cho anh H6 là 565.000.000 đồng (bao gồm thêm 10.000.000 đồng tiền phạt). Anh H6 đã nhận đủ số tiền đặt cọc và không có ý kiến đề nghị gì khác.

9.3. Thông qua anh Trần Văn T1 chiếm đoạt của anh Lê Văn H1, sinh năm 1991, trú tại thôn Đ, xã Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang số tiền 600.000.000 đồng:

Ngày 16/8/2021 và ngày 17/8/2021, Q nhắn tin cho anh T1 nhờ bán lô số 1,2,7,8,15,16 LK03 tại dự án khu dân cư mới số A, xã T, huyện L với giá 1.050.000.000 đồng/lô, nhận đặt cọc số tiền 100.000.000 đồng/1 lô. Sau đó anh T1 giới thiệu để bán cho anh Lê Văn H1, sinh năm 1991, trú tại thôn Đ, xã Đ, huyện L, tỉnh Bắc Giang (là Chủ tịch Hội đồng quản trị của Công ty TNHH T13, có địa chỉ tại thị trấn Đ, huyện L). Sau khi thỏa thuận giá với anh H1, anh T1 báo lại thì Q đồng ý. Ngày 19/8/2021, tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện L, anh T1 và anh H1 ký hợp đồng đặt cọc về việc anh H1 mua 6 lô này với tổng giá trị là 5.700.000.000 đồng, số tiền đặt cọc là 600.000.000 đồng, hẹn 10 ngày sẽ ký hợp đồng góp vốn với chủ đầu tư, nếu không thực hiện phải trả tiền cọc và tiền phạt. Sau đó, anh T1 chụp ảnh hợp đồng đặt cọc gửi qua Zalo cho Q. Sau khi nhận số tiền này, anh T1 chuyển qua tài khoản của chị Nguyễn Thị T5 số tiền 550.000.000đồng theo yêu cầu của Q và đưa trực tiếp cho Q 50.000.000 đồng. Sau khi chuyển tiền và đưa tiền trực tiếp, anh T1 ghi lại nội dung này, sau đó đưa cho Q ký xác nhận, được ghi chung với mã đưa tiền ngày 13/8/2021 (cùng mã nhận tiền đặt cọc của anh H6). Khi đến hạn Q không thực hiện theo cam kết, không trả tiền cho anh T1, vì vậy anh T1 không có tiền trả cho anh H1.

9.4. Thông qua anh Trần Văn T1 chiếm đoạt của anh Trần Thanh H, sinh năm 1980, trú tại thôn A, xã C, huyện L số tiền 600.000.000 đồng; của chị Phan Thị N, sinh năm 1994, trú tại thôn N, xã C, huyện L số tiền 1.300.000.000 đồng và của anh Trần Ngọc T6, sinh năm 1984, trú tại thôn D, xã N, huyện L, tỉnh Bắc Giang số tiền 300.000.000 đồng:

- Chiều ngày 21/8/2021, anh Trần Thanh H ký hợp đồng mua bán đất dự án với anh Trần Văn T1 về việc mua 04 lô đất “Suất ngoại giao” gồm: Lô số 31,32 LK03 và lô số 01,02 LK05, với giá 950.000.000 đồng/ lô, thỏa thuận đặt cọc 150.000.000 đồng/lô, hẹn đến ngày 03/9/2021 anh T1 sẽ hoàn tất hồ sơ đưa cho anh H ký góp vốn trực tiếp với Chủ đầu tư dự án, trường hợp không thực hiện theo cam kết anh T1 phải trả lại tiền đặt cọc và bồi thường thêm số tiền 600.000.000 đồng. Sau khi thống nhất, chị N lấy Hợp đồng mua bán đất dự án rồi ghi thông tin theo mẫu, rồi vợ chồng anh T1 ký xác nhận điểm chỉ trong Hợp đồng (anh H đứng tên bên mua). Sau đó, anh H chuyển tổng số tiền là 600.000.000 đồng vào tài khoản số 7620102X005 của anh T1 mở tại Ngân hàng thương mại cổ phần Q1 chi nhánh L2, số tiền này anh H và Phan Thị N, sinh năm 1994, trú tại thôn N, xã C, huyện L mỗi người góp 300.000.000 đồng. Sau đó anh T1 chuyển số tiền 600.000.000 đồng này đến tài khoản của Nguyễn Thị Trà . Khi đến hạn, Q trao đổi với anh T1 xin gia hạn đến ngày 20/9/2021, anh T1 có ghi hẹn anh H đến thời gian này để thực hiện theo thỏa thuận nhưng không thực hiện được.

- Sáng ngày 23/8/2021, tại nhà anh T1, anh T1 ký Hợp đồng mua bán đất dự án tại Dự án khu dân cư mới số A, xã T cho anh H 04 lô gồm: Lô số 15,16,17,18 LK04, với giá 950.000.000đồng/lô, thỏa thuận đặt cọc 150.000.000đồng/lô, hẹn đến ngày 03/9/2021 anh T1 sẽ hoàn tất hồ sơ đưa cho anh H ký góp vốn trực tiếp với Chủ đầu tư, trường hợp không thực hiện theo cam kết anh T1 phải trả lại tiền đặt cọc và bồi thường số tiền phạt là 600.000.000 đồng. Sau khi thống nhất, chị N ghi thông tin theo mẫu trong Hợp đồng mua bán đất dự án rồi đưa cho vợ chồng anh T1 ký xác nhận, có điểm chỉ. Sau đó, chị Phan Thị N chuyển tổng số tiền là 600.000.000đồng vào tài khoản số 7620102X005 của anh T1 (gồm có 300.000.000đồng của chị N và 300.000.000đồng của anh H). Sau khi nhận tiền, anh T1 chuyển số tiền 600.000.000 đồng này đến tài khoản số của chị Nguyễn Thị T5 theo yêu cầu của Q.

Chị N bán lại 04 lô đất số 15,16,17,18 LK04 cho chị Lương Ngọc T7, sinh năm 1985, trú tại tổ dân phố Đ, thị trấn Đ, huyện L (chị T7 là nhân viên môi giới bất động sản), nhận số tiền cọc là 600.000.000 đồng và tiền chênh lệch của chị T7; chị T7 giới thiệu các lô đất này và bán tiếp cho Bùi Thị Cẩm T8, sinh năm 1988, trú tại đường L, tổ dân phố N, phường X, thành phố B và chị T8 ký hợp đồng bán tiếp 04 lô đất này và nhận số tiền cọc là 600.000.000 đồng của chị Nguyễn Thị M3, sinh năm 1984, trú tại thôn B, xã B, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Sau khi không thực hiện được, chị N bỏ tiền ra trả cho chị T7, chị T7 trả cho người còn lại. Đến nay chị T7, chị T8, chị M3 không ai có ý kiến gì khác.

- Tối ngày 23/8/2021, chị N ký hợp đồng mua của anh Trần Văn T1 02 lô đất tại Dự án khu dân cư mới số A, xã T (chị N ghi nhầm thành ngày 23/7/2021), gồm: Lô số 01,02 LK01, với giá 1.110.000.000 đồng/lô, thỏa thuận đặt cọc 200.000.000 đồng/lô, hẹn đến ngày 23/9/2021 anh T1 sẽ hoàn tất hồ sơ đưa cho chị N ký góp vốn trực tiếp với Chủ đầu tư; trường hợp không thực hiện theo cam kết anh T1 phải trả lại tiền đặt cọc và bồi thường thêm số tiền 400.000.000 đồng.

Sau khi thống nhất, chị N lấy Hợp đồng mua bán đất dự án rồi ghi thông tin theo mẫu, sau khi hoàn tất thì các bên ký xác nhận điểm chỉ trong Hợp đồng. Chị N chuyển tổng số tiền là 120.000.000 đồng qua tài khoản số 7620102X005 của anh T1 (anh T1 đã báo cho Q và thống nhất với Q về việc sử dụng số tiền này để trả cho ông Nguyễn Văn M4, sinh năm 1962, trú tại thôn Đ, xã T, huyện L số tiền 100.000.000 đồng và trả cho chị Nguyễn Thị Lê T9, sinh năm 1982, trú tại tổ dân phố Đ, thị trấn Đ, huyện L số tiền 14.000.000 đồng là những người mà anh T1 mượn tiền rồi chuyển cho Q vay lại) và đưa trực tiếp cho anh T1 số tiền 280.000.000 đồng, sau đó anh T1 đưa toàn bộ số tiền 280.000.000 đồng này cho Q.

- Ngày 27/8/2021, anh Trần Ngọc T6 ký hợp đồng mua bán 04 lô đất của anh T1, có anh Lê Văn K chứng kiến, gồm: Lô số 13,14,19,20 LK02 tại Dự án khu dân cư mới số A, xã T, với giá 1.080.000.000 đồng/lô, thỏa thuận đặt cọc 150.000.000 đồng/lô, hẹn đến ngày 10/9/2021 anh T1 sẽ hoàn tất hồ sơ đưa cho anh T6 ký góp vốn với Chủ đầu tư; nếu không thực hiện theo cam kết anh T1 phải trả lại tiền đặt cọc và bồi thường thêm số tiền 300.000.000 đồng/lô. Sau khi thống nhất, anh T6 lấy Hợp đồng mua bán đất dự án rồi ghi thông tin theo mẫu, sau khi hoàn tất các bên ký xác nhận, điểm chỉ. Anh T6 chuyển tổng số tiền là 600.000.000 đồng vào tài khoản số 7620102X005 của anh T1 (bao gồm 300.000.000 đồng của chị N góp và 300.000.000 đồng của anh T6). Sau khi nhận được tiền, anh T1 chuyển số tiền 600.000.000 đồng đến tài khoản của chị Nguyễn Thị T5 theo yêu cầu của Q.

Như vậy, tổng số tiền mà anh T1 giúp Q nhận đặt cọc mua đất của anh H, chị N và anh T6 là 2.200.000.000đồng, trong đó số tiền của chị N là 1.300.000.000 đồng, số tiền của anh H là 600.000.000 đồng, số tiền của anh T6 là 300.000.000 đồng. Ngày 28/12/2021, anh T1 đã bỏ tiền cá nhân của mình ra để trả cho chị N số tiền 384.100.000 đồng; trả cho anh H số tiền là 177.300.000 đồng và trả cho anh T6 số tiền 88.600.000 đồng. Tổng số tiền mà anh T6 đã bỏ ra trả là 650.000.000 đồng.

9.5. Thông qua anh Trần Văn T1 chiếm đoạt của chị Phạm Thị Thùy D, sinh năm 1977, cư trú: 9C1, Tòa CT1A, chung cư G, phường T, thành phố B, tỉnh Bắc Giang số tiền 1.400.000.000 đồng:

Chị D quen biết Trần Văn T1 thông qua anh Lý Văn K1, sinh năm 1990, trú tại thôn C, xã K, huyện L, tỉnh Bắc Giang là nhân viên môi giới bất động sản. Anh T1 giới thiệu cho anh K1 về các lô đất “Suất ngoại giao” tại Dự án khu dân cư mới số A, xã T, huyện L mà Q đã thông tin nhờ bán, sau đó anh K1 trao đổi với chị D, chị D đồng ý mua, đặt cọc. Cụ thể như sau:

- Lần thứ nhất: Ngày 26/8/2021, chị D ký hợp đồng đặt cọc mua 06 lô đất “ngoại giao” của anh T1 (có anh K1 chứng kiến), gồm: Lô số 11,12,25,26 LK03 và lô số 21,22 LK02 với giá là 850.000.000 đồng/1 lô, đặt cọc số tiền 100.000.000 đồng/1 lô, hẹn đến ngày 06/9/2021 anh T1 hoàn tất hồ sơ đưa cho chị D ký góp vốn với chủ đầu tư, nếu không thực hiện phải bồi hoàn gấp 03 lần số tiền đặt cọc. Sau khi thống nhất, anh K1 lấy mẫu Hợp đồng đặt cọc ra rồi ghi thông tin theo mẫu, anh T1 và chị D cùng ký xác nhận. Sau đó chị D chuyển tổng số tiền 500.000.000 đồng đến tài khoản số 7620102X005 của anh T1, nợ lại 100.000.000 đồng. Anh T1 chuyển số tiền 500.000.000 đồng đến tài khoản của chị Nguyễn Thị T5 theo yêu cầu của Q.

- Lần thứ hai: Ngày 27/8/2021, anh T1 giới thiệu 04 lô đất gồm: Lô số 5,6,11,12 LK02, với giá 1.100.000.000 đồng/1 lô, chị D đồng ý mua, số tiền đặt cọc 100.000.000 đồng/1 lô; do bận việc nên chị D nhờ anh K1 đứng ra làm hợp đồng, thỏa thuận trong thời hạn từ 27/8/2021 đến 12/9/2021 anh T1 hoàn tất hồ sơ để chị D ký góp vốn với chủ đầu tư, sau đó anh K1 lấy mẫu hợp đồng ra ghi rõ nội dung đã thỏa thuận, rồi các bên cùng ký xác nhận. Cùng ngày, chị D chuyển nốt 100.000.000 đồng tiền cọc của 06 lô mua ngày 26/8/2021 cho anh T1 và chuyển số tiền 400.000.000 đồng là tiền đặt cọc của 04 lô 5,6,11,12 LK02 đến tài khoản số 10186803X6 của anh K1 để anh K1 chuyển đến tài khoản số 7620102X005 cho anh T1.

Do Q yêu cầu và đã thống nhất từ trước, anh T1 chuyển số tiền 480.000.000 đồng đến tài khoản số 1960119X666 của anh Nguyễn Văn H6 để trả tiền nhận cọc bán 05 lô đất như đã nêu ở trên, còn 20.000.000 đồng chuyển đến tài khoản của chị Nguyễn Thị T5 theo yêu cầu của Q.

- Lần thứ ba: Ngày 30/8/2021, Do bận việc nên chị D nhờ anh K1 giao dịch mua, đặt cọc 04 lô đất ngoại giao của anh T1 gồm: Lô số 06,26,27 LK04, lô số 13 LK01, trị giá 850.000.000 đồng/1 lô, đặt cọc số tiền 100.000.000 đồng/1 lô, hẹn từ ngày 30/8/2021 đến ngày 06/9/2021 anh T1 hoàn thiện hồ sơ để chị D ký góp vốn với chủ đầu tư. Chị D chuyển số tiền 400.000.000 đồng vào tài khoản của anh K1, sau đó anh K1 chuyển đến tài khoản của anh T1. Nhận được tiền, anh T1 chuyển tiếp đến tài khoản của chị Nguyễn Thị T5 theo yêu cầu của Q.

Sau khi đặt cọc mua 14 lô đất của anh T1, chị D bán lại 05 lô đất cho chị Nhiêu Thị T10; bán anh Nguyễn Văn T11 06 lô, nhận tiền cọc và tiền chênh. Do anh T1 không thực hiện theo hợp đồng nên chị D phải trả lại tiền cọc và tiền phạt với hai người này với tổng số tiền là 2.100.000.000 đồng. Sau đó anh T1 đã nói cho Q biết, rồi anh T1 và chị D thỏa thuận anh T1 sẽ phải đền bù số tiền này, được tính cộng gộp thêm vào số tiền đặt cọc của 14 lô đất trên và chị D đồng ý mua 10 lô đất được tăng 50.000.000 đồng/1 lô, 04 lô tăng 100.000.000 đồng/1 lô, tổng số tiền tăng lên là 900.000.000 đồng. Ngày 06/9/2021, tại phòng làm việc của anh T1, anh K1 lấy mẫu hợp đồng đặt cọc rồi ghi tổng hợp 14 lô đất mua của anh T1 với trị giá tổng là 13.800.000.000 đồng, số tiền đặt cọc tổng là 3.500.000.000 đồng, Q báo anh T1 hẹn chị D sau 10 ngày nữa sẽ bàn giao hồ sơ. Khi đến hạn, Q và anh T1 không thực hiện theo cam kết. Ngày 28/12/2021, anh T1 trả cho chị D số tiền là 350.000.000 đồng.

Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh chủ đầu tư các dự án khu dân cư mới Đ, T số 1, kết quả như sau:

- Tại Dự án khu dân cư mới số A, xã T, huyện L: Từ khi được cấp phép đến nay, Chủ đầu tư không có báo cáo về việc huy động góp vốn vào dự án, chưa nhận hồ sơ góp vốn, không cho, tặng lô đất dưới hình thức “Suất ngoại giao” cho tổ chức, cá nhân nào, chưa bán, chưa ủy quyền cho ai bán lô đất nào tại dự án. Anh T1 và Giáp Thị Q không giữ vai trò gì trong Chủ đầu tư, không được Công ty giao cho lô đất nào, không được giới thiệu bán hoặc ủy quyền cho bán, nhận góp vốn đối với bất kỳ lô đất nào tại dự án.

- Tại dự án khu dân cư mới Đ, xã B, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh B xác định: Giáp Thị Q không mua, bán lô đất nào tại dự án, chủ đầu tư không nhận tiền góp vốn, không ủy quyền cho Giáp Thị Q bán lô đất nào tại dự án. Dự án này đủ điều kiện chuyển nhượng theo quy định.

Với nội dung trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 85/2023/HS-ST ngày 15/9/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang đã quyết định;

1. Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 39 Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Giáp Thị Q tù Chung thân về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo tạm giữ, tạm giam là 30/3/2022. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 BLHS, Điều 584, Điều 585, Điều 589 Bộ luật Dân sự; Buộc anh Trần Văn T1 phải trả tiền cho những người bị hại cụ thể:

Trả cho anh Lê Văn H1 số tiền 600.000.000 đồng; Trả cho anh Trần Thanh H số 422.700.000 đồng;

Trả cho chị Phan Thị N số tiền là 915.900.000 đồng;

T12 cho anh Trần Ngọc T6 số tiền 211.400.000 đồng;

Trả cho chị Phạm Thị Thùy D số tiền 1.050.000.000 đồng Ngoài ra, bản án còn buộc trách nhiệm dân sự của bị cáo đối với các bị hại khác, quyết định xử lý vật chứng, tuyên lãi suất chậm thi hành án, nghĩa vụ chịu án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 03/10/2023 các bị hại là Lê Văn H1 và Trần Thanh H đều có đơn kháng cáo đề nghị xem xét trách nhiệm hình sự đối với anh Trần Văn T1 và vợ là chị Cao Thị T2 vì cho rằng có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, những người kháng cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo:

- Bị cáo Giáp Thị Q trình bày: Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản án sơ thẩm đã quy kết, nên sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo không kháng cáo, đồng ý với bản án sơ thẩm.

- Các bị hại có kháng cáo thống nhất trình bày: Anh Trần Văn T1 và chị Cao Thị T2 tuy không có đất, không có hợp đồng đặt cọc việc góp vốn với chủ đầu tư nhưng vẫn đưa ra thông tin gian dối và cam kết sẽ chuyển nhượng hợp đồng góp vốn sang cho các bị hại; số tiền nhận đặt cọc anh T1 cũng không dùng vào việc mua đất mà sử dụng vào việc khác; giữa Giáp Thị Q và anh Trần Văn T1 không có văn bản thỏa thuận về việc mua bán đất, bản thân Giáp Thị Q không thừa nhận. Do đó, anh T1, chị T2 có dấu hiệu phạm tội đề nghị Hội đồng xét xử hủy bản án sơ thẩm để giải quyết sơ thẩm lại.

- Anh Trần Văn T1 trình bày: Anh ký các hợp đồng bán đất đều là do chỉ đạo của Giáp Thị Q, anh đã nghe Giáp Thị Q bảo có nhiều lô đất thuộc suất ngoại giao, có giá sẻ hơn giá thị trường và đề nghị tìm người bán hộ, nếu bán được sẽ được chia lợi nhuận, anh cũng không biết cụ thể bị cáo có đất hay không; toàn bộ số tiền nhận đặt cọc đã chuyển cho Giáp Thị Q, việc anh và Giáp Thị Q trao đổi thông tin được thể hiện trực tiếp, qua điện thoại, hoặc qua tin nhắn Zalo; bản thân anh cũng là bị hại trong vụ án vì bị Giáp Thị Q lừa.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội phát biểu quan điểm: Sau khi phân tích, đánh giá tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo thấy rằng: Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa thì cấp sơ thẩm quy kết bị cáo phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là có căn cứ, đúng pháp luật, bị cáo cũng không kháng cáo, không bị kháng cáo kháng nghị liên quan đến tội danh và hình phạt nên đã có hiệu lực pháp luật. Đối với kháng cáo của anh H1, anh H liên quan đến trách nhiệm của anh Trần Văn T1 và chị Cao Thị T2 quá trình điều tra đã xác định được anh T1 do bị cáo Q nhờ môi giới để bán đất, bản thân anh T1 cũng không nắm được các thông tin do Giáp Thị Q đưa ra, anh T1 chỉ giúp bị cáo Q môi giới để bán đất; số tiền nhận đặt cọc đều đã chuyển cho Giáp Thị Q, nên anh T1 và chị T2 không cấu thành tội phạm. Do đó, không cơ căn cứ chấp nhận kháng cáo của các bị hại; đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự, bác kháng cáo giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Người bào vệ quyền lợi ích hợp pháp cho các bị hại có kháng cáo trình bày: Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của các bị hại. Bởi vì, Anh T1 không phải là người có chức năng liên quan đến các dự án; biết mình không có tài sản là đất nhưng vẫn bán; khi đến hạn nhưng không giao được đất như cam kết đã yêu cầu cả vợ là Cao Thị T2 cùng ký vào các hợp đồng đặt cọc, số tiền anh T1 nhận đặt cọc không phải chuyển hết cho Giáp Thị Q mà dùng một phần để trả nợ; Giáp Thị Q chỉ thừa nhận giữa Q và anh T1 chỉ là quan hệ vay tiền, sau khi nhận tiền đặt cọc anh T1 chuyển cho Giáp Thị Q nhưng không ghi số lô cụ thể, trong khi nhận đặt cọc thể hiện số lô cụ thể. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét để ra một bản án khách quan, đúng pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa bị cáo Giáp Thị Q thừa nhận hành vi phạm tội của mình như bản án sơ thẩm đã quy kết, bản án sơ thẩm đã giải quyết đúng quy định của pháp luật nên bị cáo không kháng cáo. Do bị cáo không kháng cáo, không có kháng cáo, kháng nghị liên quan đến bị cáo nên phần bản án liên quan đến bị cáo đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2] Xét kháng cáo của các bị hại là anh Trần Thanh H và anh Lê Văn H1, Hội đồng xét xử thấy: Tuy quá trình điều tra và tại các phiên tòa Giáp Thị Q không thừa nhận bị cáo nhờ anh Trần Văn T1 giao dịch bán đất, không đưa ra thông tin không đúng với anh T1, bị cáo chỉ thừa nhận vay tiền của anh Trần Văn T1. Tuy nhiên, căn cứ lời khai của anh Trần Văn T1 trong suốt quá trình điều tra và tại các phiên tòa thể hiện: Giáp Thị Q nhờ anh T1 bán đất dự án giúp Q nên đã ký kết hợp đồng bán đất với người khác, bản thân anh T1 sau khi nhận tiền đặt cọc đều chuyển hết cho Q; lời khai của anh T1 phù hợp với lời khai của anh H, chị N, anh T6 và chị D đều thể hiện là tuy mua đất của anh T1 nhưng về sau được anh T1 thông báo là anh T1 đứng ra bán giúp Q; phù hợp với hình ảnh chụp tin nhắn Zalo giữa Trần Văn T1 và Giáp Thị Q: Có hình ảnh bản đồ các lô đất Dự án Khu dân cư mới số 1 - T mà Q gửi cho T1, kèm theo là một số nội dung trao đổi về giá cả các lô đất; hình ảnh chụp tin nhắn Zalo giữa anh Lý Hồng H5 (chồng chị P) và Giáp Thị Q có hình ảnh bản đồ các lô đất Dự án Khu dân cư Đ - B mà Q gửi cho H5, kèm theo là một số nội dung trao đổi về mua, bán các lô đất; phù hợp với kết quả thu giữ lịch sử chuyển tiền: Có các giao dịch chuyển tiền giữa các bị hại, người liên quan chuyển tiền cho Giáp Thị Q và chuyển tiền cho Q thông qua Nguyễn Thị T5 (phù hợp với Nguyễn Thị T5). Tại phiên tòa ngày 07/7/2023 Tòa án cấp sơ thẩm đã trả hồ sơ điều tra bổ sung trong đó có nội dung làm rõ hành vi của Trần Văn T1. Căn cứ kết quả điều tra, kết quả xét hỏi và tranh luận tại các phiên tòa, xác định anh Trần Văn T1 do tin tưởng Giáp Thị Q có các suất đất “ngoại giao” của dự án khu dân cư, Giáp Thị Q đã nhờ Trần Văn T1 môi giới, tìm người mua để bán giúp và hứa hẹn sẽ được chi trả hoa hồng. Anh T1 tin tưởng nên đã bỏ tiền cá nhân và đi vay tiền của nhiều người đưa cho Q vay; đứng ra làm thủ tục nhận tiền đặt cọc, bán giúp Q một số lô đất tại Dự án khu dân cư mới số A, xã T, huyện L rồi chuyển tiền cho Q. Trước khi giao dịch với người mua đất, nhận tiền đặt cọc, anh T1 liên lạc với Q để xác nhận thông tin về những lô đất bán; số tiền nhận được chuyển cho Q dưới hình thức đưa tiền mặt hoặc chuyển qua tài khoản Ngân hàng của chị Nguyễn Thị Trà . Anh T1 cũng chưa được hưởng lợi gì và cũng là 1 trong số những người bị hại trong vụ án. Do đó, mặc dù anh Trần Văn T1 giúp Giáp Thị Q đứng ra dao dịch nhận tiền đặt cọc một số lô đất, nhưng anh T1 do tin tưởng các thông tin Giáp Thị Q đưa ra là có thật, anh T1 không nhận thức được sự gian dối của Giáp Thị Q. Cấp sơ thẩm xác định anh Trần Văn T1 và chị Cao Thị T2 không đồng phạm với Giáp Thị Q là có căn cứ. Vì vậy, kháng cáo của anh Trần Thanh H và anh Lê Văn H1 không có căn cứ để chấp nhận. Tại phiên tòa phúc thẩm đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội đề nghị không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm là có căn cứ.

[3] Về án phí: Bị hại có kháng cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự; không chấp nhận kháng cáo của những bị hại, gồm: Anh Trần Thanh H và anh Lê Văn H1; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 85/2023/HS-ST ngày 15/9/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang.

Về án phí: Anh Trần Thanh H và anh Lê Văn H1 không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (đưa thông tin giả về lô đất "suất ngoại giao" để lừa đảo nhiều người mua đất) số 60/2024/HS-PT

Số hiệu:60/2024/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:16/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về