Bản án về tội lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy số 101/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

BẢN ÁN 101/2022/HS-PT NGÀY 22/09/2022 VỀ TỘI LÔI KÉO NGƯỜI KHÁC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 22 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 83/2022/TLPT-HS ngày 08 tháng 8 năm 2022 đối với các bị cáo Nguyễn Hoài Q, Nguyễn Hữu T, Nguyễn Văn H và Đặng Văn V. Do có kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế, đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 126/2022/HS-ST ngày 07 tháng 6 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.

Các bị cáo bị kháng nghị:

1. Nguyễn Hoài Q, sinh ngày 30 tháng 11 năm 1991, tại tỉnh Thừa Thiên Huế; Nơi cư trú: Số 6/82 D, phường Th, thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn M và bà Trương Thị Như Á. Vợ, con: Chưa có; tiền án: Không; tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 20/3/2017 bị Công an thành phố Huế xử phạt vi phạm hành chính 7.500.000 đồng về hành vi điều khiển xe ô tô không chú ý quan sát gây tai nạn giao thông theo Quyết định số: 63944/QĐ-XPHC. Bị tạm giữ ngày 13/9/2021, được thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn "Bảo lĩnh" cho đến nay. Có mặt.

2. Nguyễn Hữu T(Tên gọi khác: Rô), sinh ngày 05 tháng 05 năm 1990 tại tỉnh Thừa Thiên Huế. Nơi cư trú: Lô B14 khu tái định cư Ph, phường G, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12, dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Hữu M và bà Hà Thị S; vợ con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 07/9/2020 bị Công an thành phố Huế xử phạt vi phạm hành chính 750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy theo Quyết định số: 5012/QĐ-XPHC. Bị tạm giữ từ ngày 13/9/2021 đến ngày 17/9/2021 được thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú" cho đến nay. Có mặt.

3. Nguyễn Văn H (Tên gọi khác: Bin), sinh ngày 20 tháng 02 năm 1990, tại tỉnh Thừa Thiên Huế. Nơi cư trú: Số 04 Ng, phường Th, thị xã H, tỉnh Thừa Thiên Huế, nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam, con ông: Nguyễn Văn L và bà Nguyễn Thị L; có vợ là Phạm Thị Thu Tr và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không. Bị tạm giữ từ ngày 13/9/2021 đến ngày 17/9/2021 được thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú" cho đến nay. Có mặt.

4. Đặng Văn V, sinh ngày 16 tháng 3 năm 1994 tại tỉnh Thừa Thiên Huế; Nơi cư trú: Số 198 H, phường Th, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế; nghề nghiệp: Kinh doanh tự do; trình độ văn hoá: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đặng Văn B và bà Nguyễn Thị S; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không. Bị tạm giữ từ ngày 13/9/2021, chuyển tạm giam từ ngày 19/9/2021 đến ngày 15/10/2021 thì được thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn "Bảo lĩnh" cho đến nay. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ ngày 12/9/2021 Nguyễn Hữu T, Nguyễn Văn H và Đặng Văn V sau khi cùng ngồi nhậu gần xong thì cả ba thống nhất cùng nhau góp tiền mua ma túy và thuê phòng để sử dụng. H gọi điện thoại cho một đối tượng tên “D" qua số điện thoại 0934918111 để hỏi thuê phòng sử dụng ma túy thì D đồng ý và chỉ đến Home Sty Tự Do ở địa chỉ 18/33 đường Lê Qúy Đôn, phường Phú Hội, thành phố Huế; còn T gọi điện thoại cho Nguyễn Hoài Q để nhờ Q mua 01 chấm ma túy khay và 02 viên ma túy kẹo nhưng Q không mua mà cho số điện thoại để tự liên lạc mua. Sau đó, cả nhóm gồm T, Hoàng và Vinh đón xe taxi đến nhà nghỉ Tự Do ở địa chỉ 18 39 đường Lê Quý Đôn, thành phố Huế. Tại đây, cả nhóm gặp một nam thanh niên đợi sẵn rồi dẫn lên phòng 202, sau đó lắp loa, đèn, bố trí dĩa sứ, thẻ nhựa, ống hút rồi ra về. Ngồi chơi được một lúc thì Tùng liên lạc mua ma túy, Hoàng điện thoại rủ bạn gái là Trần Thị Thanh Hằng đến chơi. Do Tùng liên lạc không được với người bán ma túy nên cả nhóm ở lại nhà nghỉ. Hoàng cùng Hằng sang phòng bên ngủ lại, còn Tùng và Vinh ở lại phòng 202.

Đến khoảng 06 giờ sáng ngày 13/9/2021, Tùng gọi điện thoại rủ Q đến phòng 202 chơi thì Q đồng ý. Khi vào phòng Q gặp Tùng, Vinh, một lúc sau thì có Hoàng vào phòng, tại đây cả nhóm thống nhất góp tiền mua ma túy để sử dụng. Tùng, Hoàng và Vinh mỗi người góp 500.000 đồng, Q góp 400.000đồng, tổng số tiền góp được là 1.900.000 đồng rồi đưa cho Q liên lạc mua ma túy. Sau đó, Q gọi điện thoại cho nam thanh niên tên là Trường hỏi mua 01 chấm ma túy khay và 02 viên ma túy kẹo với giá 1.900.000 đồng thì Trường đồng ý. Sau khi có ma túy, Q đem lên phòng 202 thì Hoàng gọi Hằng qua phòng ngồi chơi và phục vụ. Lúc này Tùng, Vinh và Q mỗi người cũng gọi điện thoại rủ bạn gái của mình đến phục vụ, sử dụng ma túy. Q gọi điện thoại rủ bạn gái Nguyễn Thị H; Vinh gọi điện thoại rủ bạn gái Trần Thị Quỳnh Như; T gọi điện thoại rủ bạn gái Trần Thị Lệ Quyên. Sau khi số bạn nên có mặt tại phòng thì Hoàng, Vinh, Tùng, Q cùng rủ bạn gái của mình lấy ma túy sử dụng. Đến khoảng 09 giờ sáng cùng ngày 13/9/2021 thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Huế phối hợp với Công an phường Phú Hội, thành phố Huế vào kiểm tra, phát hiện bắt quả tang, thu giữ các vật chứng có liên quan.

Vật chứng tạm giữ gồm:

- 01 (một) gói ni long màu trắng viền đỏ, bên trong có chứa 01 mảnh viên nén màu xanh không rõ hình, sau khi tạm giữ được niêm phong kín bằng phong bì màu trắng bên ngoài có chữ ký ghi họ tên Điều tra viên Lê Nam, chữ ký ghi họ tên Nguyễn Hoài Q, Đặng Văn V, Nguyễn Văn H, Nguyễn Hữu T và 01 dấu tròn đỏ của Công an phường Phú Hội, thành phố Huế, ngoài cùng dán băng keo trong (gói ký hiệu A1).

- 01 (một) gói ni long bên trong chứa tinh thể rắn màu trắng dạng bột mịn, sau khi tạm giữ được niêm phong kín bằng phong bì giấy màu trắng, bên ngoài có một chữ ký ghi họ tên Điều tra viên Lê Nam, chữ ký ghi họ tên Nguyễn Hoài Q, Đặng Văn V, Nguyễn Văn H, Nguyễn Hữu T và 01 dấu tròn đỏ của Công an phường Phú Hội, thành phố Huế, ngoài cùng dán băng keo trong (gói ký hiệu A2).

- 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO, bên trong có thẻ sim số 0931998361 thu giữ của Nguyễn Hoài Q.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 11, imei 35397110235521, bên trong có thể sim số 0915371369, 0859979152 thu giữ của Nguyễn Văn Hoàng.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 6, imei: 359307066134087, bên trong có thẻ sim số 0935077595 thu giữ của Nguyễn Hữu T.

- 01 (một) điện thoại đi động hiệu Iphone X, imei: 353120100813996, bên trong có thể sim số 0961516177 thu giữ của Đặng Văn V.

- 01 (một) chiếc loa màu xanh hiệu JBL-BOOMBOx2 - 01 (một) chiếc đèn Laze màu trắng.

- 01 (một) chiếc đèn Laze SK-1000RGB 6in1.

- 01 (một) dĩa sử máu màu trắng.

- 01 (một) thẻ nhựa.

- 01 (một) ống hút được cuộn dọc bằng tờ tiền Polime mệnh giá 10.000 đồng.

Tại Bản kết luận giám định số 356/GĐ ngày 17/9/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thừa Thiên Huế, kết luận:

1. Mảnh viên nén màu xanh trong phong bì niêm phong ký hiệu A1 gửi giám định (nêu tại mục 1.1, phần II) có khối lượng là 0,2213g là mà túy, loại MDMA.

2. Mẫu tinh thể rắn màu trắng trong phong bì niêm phong ký hiệu A2 gửi giám định (nêu tại mục 1.2, phần II) có khối lượng là 0,6905g là ma túy, loại Ketamine.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 126/2022/HS-ST ngày 07 tháng 6 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Huế, tỉnh Thừa thiên Huế đã áp dụng khoản 1 Điều 258; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Hoài Q, Nguyễn Hữu T, Nguyễn Văn H và Đặng Văn V; áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Hoài Q; Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Hoài Q, Nguyễn Hữu T, Nguyễn Văn H, Đặng Văn V phạm tội “Lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy”.

Xử phạt:

- Bị cáo Nguyễn Hoài Q 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án, nhưng được trừ thời gian đã bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/9/2021 đến ngày 15/10/2021.

- Bị cáo Nguyễn Hữu T 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án, nhưng được trừ thời gian đã bị tạm giữ từ ngày 13/9/2021 đến ngày 17/9/2021.

- Bị cáo Nguyễn Văn H 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành in, nhưng được trừ thời gian đã bị tạm giữ từ ngày 13/9/2021 đến ngày 17/9/2021.

- Bị cáo Đặng Văn V 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án, nhưng được trừ thời gian đã bị tạm giữt, tạm giam từ ngày 13/9/2021 đến ngày 15/10/2021.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Tại Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 1314/QĐ-VKS-P7 ngày 07/7/2022, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế kháng nghị Bản án sơ thẩm số 126/2022/HS-ST ngày 07 tháng 6 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế về phần trách nhiệm hình sự (về tội danh) đối với các bị cáo Nguyễn Hoài Q, Nguyễn Hữu T, Nguyễn Văn H và Đặng Văn V; đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế xét xử phúc thẩm theo hướng hủy Bản án sơ thẩm nêu trên để điều tra lại theo đúng quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa phúc thẩm, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên Hủy bản án sơ thẩm số 126/2022/HS-ST ngày 07 tháng 6 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế để điều tra, truy tố, xét xử lại theo thủ tục chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về nội dung vụ án :

Có đủ căn cứ để kết luận: Vào lúc khoảng 21 giờ ngày 12/9/2021, Nguyễn Hữu T, Nguyễn Văn H và Đặng Văn V đã khởi xướng, bàn bạc và thống nhất góp tiền thuê địa điểm và mua ma túy để cùng sử dụng; H đã liên lạc với một đối tượng để hỏi thuê địa điểm tại số 202 Homestay Tự Do ở địa chỉ số 18/33 đường Lê Quý Đôn, phường Phú Hội, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế.

Khoảng 06 giờ sáng ngày 13/9/2021, tại phòng 202 của Homestay Tự Do; Nguyễn Hoài Q, Nguyễn Hữu T, Nguyễn Văn H và Đặng Văn V cùng nhau góp số tiền 1.900.000 đồng để mua ma túy sử dụng.

Sau khi mua được ma túy, Nguyễn Văn Hgọi Trần Thị Thanh Hằng; Nguyễn Hoài Q gọi Nguyễn Thị H ; Nguyễn Hữu Tgọi Trần Thị Lệ Quyên ; Đặng Văn V gọi Trần Thị Quỳnh Như đến để phục vụ và cùng sử dụng trái phép chất ma túy thì bị phát hiện bắt quả tang.

Như vậy, các bị cáo Tùng, Hoàng, Vinh, Q đã có đã có hành vi chuẩn bị địa điểm, công cụ, phương tiện và tìm người cung cấp trái phép chất ma túy là loại MDMA và Ketamine để trực tiếp sử dụng và rủ rê các đối tượng Trần Thị Thanh Hằng, Nguyễn Thị H, Trần Thị Lệ Quyên, Trần Thị Quỳnh Như cùng sử dụng với các bị cáo.

Hành vi của các bị cáo Tùng, Hoàng, Vinh, Q có đủ dấu hiệu cấu thành của tội "Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy" được quy định tại Điều 255 của Bộ luật hình sự.

Hành vi "Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy" của các bị cáo đã được hướng dẫn chi tiết tại tiểu mục 6.1 mục 6 của Thông tư liên tịch số 17/2017/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2017 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XXVIII “Các tội phạm về ma túy” của Bộ luật Hình sự năm 1999 như sau:

“…6. Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 197) 6.1. “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” là một trong các hành vi sau đây:

a) Chỉ huy, phân công, điều hành các hoạt động đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể người khác;

b) Chỉ huy, phân công, điều hành việc chuẩn bị, cung cấp chất ma túy, địa điểm, phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy, tìm người sử dụng chất ma túy...”.

Do đó, việc Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo trên về tội "Lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy" theo khoản 1 Điều 258 Bộ luật hình sự là sai lầm trong việc áp dụng pháp luật.

[2] Xét kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế, Hội đồng xét xử thấy rằng:

Quá trình điều tra, truy tố, xét xử tại cấp sơ thẩm đã xác định được hành vi điều hành việc chuẩn bị địa điểm, công cụ, phương tiện để mua và cung cấp chất ma túy cho nhiều người cùng sử dụng trái phép chất ma túy của Nguyễn Hoài Q, Nguyễn Hữu T, Nguyễn Văn H và Đặng Văn V.

Sau khi bị bắt quả tang, các bị cáo và những người cùng sử dụng ma túy tại phòng 202 Homestay Tự Do đều được xét nghiệm dương tính với ma túy. Hành vi nêu trên của các bị cáo đã đủ dấu hiệu cấu thành tội "Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy" được quy định tại Điều 255 của Bộ luật hình sự. Việc các cơ quan tiến hành tố tụng thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế đã điều tra, truy tố và xét xử Nguyễn Hoài Q, Nguyễn Hữu T, Nguyễn Văn H và Đặng Văn V về tội “Lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy" là không đúng tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của các bị cáo, dẫn đến xét xử sai tội danh đối với các bị cáo.

Vì vậy, căn cứ điểm a khoản 1 Điều 358 của Bộ luật tố tụng hình sự, chấp nhận Quyết định kháng nghị phúc thẩm số: 1314/QĐ-VKS-P7 ngày 07/7/2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế đề nghị hủy Bản án hình sự sơ thẩm số 126/2022/HS-ST ngày 07 tháng 6 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế để điều tra lại đối với Nguyễn Hoài Q, Nguyễn Hữu T, Nguyễn Văn H và Đặng Văn V về tội "Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy" theo đúng quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 355, điểm a khoản 1 Điều 358 của Bộ luật tố tụng hình sự; Tuyên xử:

1. Chấp nhận Quyết định kháng nghị phúc thẩm số: 1314/QĐ-VKS-P7 ngày 07/7/2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế; Hủy Bản án hình sự sơ thẩm số: 126/2022/HS-ST ngày 07 tháng 6 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế để điều tra lại đối với Nguyễn Hoài Q, Nguyễn Hữu T, Nguyễn Văn H và Đặng Văn V về tội "Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy" theo quy định của pháp luật.

2. Chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân thành phố Huế để điều tra lại theo thủ tục chung.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

182
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy số 101/2022/HS-PT

Số hiệu:101/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thừa Thiên Huế
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về