Bản án về tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ số 60/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 60/2021/HS-PT NGÀY 30/06/2021 VỀ TỘI LẠM QUYỀN TRONG KHI THI HÀNH CÔNG VỤ

Ngày 30 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Nam Định xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 61/2021/TLPT-HS ngày 10 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo Trần Thị T do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 12/2021/HS-ST ngày 30/03/2021 của Tòa án nhân dân huyện Mỹ Lộc.

- Bị cáo có kháng cáo:

Họ tên: Trần Thị T, sinh ngày 21/01/1954 tại Nam Định; nơi cư trú: Xóm 7, xã M , huyện M, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: khi phạm tội là Bí thư chi bộ xóm 7, xã M; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Công T và bà Trần Thị V; chồng, con: Không; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Có mặt

- Bị cáo không có kháng cáo:

Họ tên: Trần Văn Đ, sinh ngày 02/12/1957 tại Nam Định; nơi cư trú: Xóm 7, xã M , huyện M, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: khi phạm tội là Trưởng xóm 7, xã M; trình độ văn hoá: 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn T và bà Trần Thị V; có vợ là Trần Thị V và 02 con, lớn sinh năm 1986, nhỏ sinh năm 1991; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị tạm giam từ ngày 30/10/2020, đến ngày 04/12/2020 thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng “Bảo lĩnh”. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Uỷ ban nhân dân huyện Mỹ L, tỉnh Nam Định Người đại diện hợp pháp: Ông Lê Quang H - Phó Chủ tịch UBND huyện Mỹ Lộc. Có mặt.

2. Uỷ ban nhân dân xã Mỹ Th, huyện Mỹ L, tỉnh Nam Định Người đại diện hợp pháp: Ông Trần Quốc H - Chủ tịch UBND xã Mỹ Thắng, huyện Mỹ Lộc. Có mặt.

3. NLQ3 sinh năm: 1976. Nơi cư trú: Xóm 9, xã M, huyện M, tỉnh Nam Định. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Năm 2016, Trần Văn Đ được bầu giữ chức vụ Phó bí thư chi bộ kiêm trưởng xóm xóm 7, xã Mỹ Thắng nhiệm kỳ 2015-2017. Năm 2015, Trần Thị T được bầu giữ chức vụ Bí thư chi bộ xóm 7 nhiệm kỳ 2015-2017.

Tha đất số 134 tờ bản đồ số 14 thuộc xóm 7, xã Mỹ Thắng theo trích lục bản đồ địa chính xã Mỹ Thắng năm 1993, chỉnh lý năm 1997 là đất xây dựng nhà trẻ (đất giáo dục) có diện tích là 660 m2 được sử dụng để xây dựng nhà trẻ của xóm 7, xã Mỹ Thắng do UBND xã Mỹ Thắng quản lý. Đến năm 2011, nhà trẻ của xóm 7 được chuyển ra khu vực xóm 10 thửa đất trên được UBND xã giao cho đơn vị xóm 7 tạm thời quản lý để sử dụng làm nhà văn hóa xóm 7.

Theo Quyết định số: 2269/QĐ-UBND ngày 08/11/2013 của Ủy ban nhân dân huyện Mỹ Lộc về việc xét duyệt quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và Kế hoạch sử dụng đất 05 năm kỳ đầu (2011 - 2015) của xã Mỹ Thắng, thửa đất số 134, tờ bản đồ số 14 nêu trên được quy hoạch là đất nhà văn hóa xóm 7 và đất ở. Năm 2015, thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt, UBND xã Mỹ Thắng đã tiến hành xây dựng hồ sơ đấu giá quyền sử dụng đất ở với diện tích 102m2 tại khu vực phía Tây của mảnh đất trên và đã đấu giá thành công, được UBND tỉnh Nam Định phê duyệt theo Quyết định số: 2856/QĐ-UBND ngày 24/12/2015.

Sau khi hoàn thiện hồ sơ bán đấu giá quyền sử dụng đất ở đối với 102 m2 đất nêu trên, thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới xã Mỹ Thắng, ngày 19/12/2015, UBND xã Mỹ Thắng đã bàn giao diện tích 461 m2 đất còn lại sau đấu giá tại thửa đất 134 tờ bản đồ số 14 nêu trên cho Chi bộ, Trưởng thôn và các ban ngành đoàn thể xóm 7, xã Mỹ Thắng để xây dựng nhà văn hóa mới của xóm 7. Tại thời điểm này, Trần Văn Đ và Trần Thị T đã đại diện cho đơn vị xóm 7, xã Mỹ Thắng nhận bàn giao diện tích đất nêu trên.

Sau khi nhận bàn giao thửa đất trên, ngày 15/3/2016 tại nhà văn hóa xóm 7, xã Mỹ Thắng, Trần Văn Đ và Trần Thị T đã triệu tập cuộc họp quân dân chính các ban ngành đoàn thể xóm 7, xã Mỹ Thắng do Trần Văn Đ là chủ tọa. Cuộc họp đã thảo luận nhiều nội dung, trong đó có nội dung là tìm nguồn kinh phí để xây dựng nhà văn hóa mới xóm 7, xã Mỹ Thắng. Cuộc họp đã thống nhất nội dung: “Về nguồn kinh phí để xây dựng không có, với tinh thần tuyên truyền vận động toàn thể nhân dân trong thôn đóng góp, cụ thể dự kiến là thu mỗi một khẩu 300.000 đồng trong năm 2016 chia làm hai đợt”, “Hội nghị thống nhất đối với sân đằng trước làm kho để tập kết nguyên liệu, đối với sân phía Tây có hướng cho thuê lâu dài”. Nội dung của Hội nghị được lập thành biên bản, Định, Thanh và các ban ngành đoàn thể cùng ký vào biên bản.

Sau đó, Chi bộ xóm 7, xã Mỹ Thắng đã họp do Trần Thị T chủ trì cũng đã bàn bạc, thống nhất với chủ trương thu mỗi khẩu là 300.000 đồng trong năm 2016 và cho thuê lâu dài đối với sân phía Tây nhà văn hóa để lấy kinh phí xây dựng nhà văn hóa mới của xóm, đồng thời giao cho Trần Văn Đ triệu tập toàn thể nhân dân trong xóm để thông báo, bàn bạc, thỏa luận về chủ trương tìm nguồn kinh phí để xây dựng nhà văn hóa nêu trên.

Tại biên bản cuộc họp ngày 22/3/2016 tại nhà văn hóa xóm 7, Trần Văn Đ đã triệu tập cuộc họp nhân dân xóm 7, xã Mỹ Thắng, Thanh tham dự cuộc họp với vai trò là Bí thư chi bộ để cùng bàn bạc tìm nguồn kinh phí xây dựng nhà văn hóa mới xóm 7. Sau quá trình bàn bạc, thảo luận, cuộc họp đã thống nhất về nguồn kinh phí xây dựng nhà văn hóa gồm: “Cho thuê lâu dài đất phía Tây còn lại của nhà văn hóa”, “Mỗi khẩu đóng góp 300.000 đồng thu làm 02 lần trong năm 2016”. Nội dung cuộc họp đã được lập thành biên bản, Trần Thị T, Trần Văn Đ và những người có liên quan đều ký vào trong biên bản.

Sau cuộc họp, Trần Văn Đ và Trần Thị T cùng các ban ngành đoàn thể xóm 7 đã đi thu tiền đóng góp của các hộ dân để xây dựng nhà văn hóa, đồng thời thông báo trong toàn thể nhân dân làng Sắc, xã Mỹ Thắng ai có nhu cầu muốn thuê đất của nhà văn hóa xóm 7, xã Mỹ Thắng thì đăng ký với Trần Văn Đ để tập hợp. Do chỉ có 04 hộ dân nộp tiền để xây dựng mới nhà văn hóa còn 08 hộ dân khác có đơn xin thuê đất của nhà văn hóa nên Trần Văn Đ và Trần Thị T đã bàn bạc với nhau về giá khởi điểm cho thuê đất để có đủ tiền xây dựng nhà văn hóa. Khi đó, Trần Thị T nêu ra ý kiến: “UBND xã vừa đấu giá đất với giá khởi điểm là 10.000.000 đồng/1m2, thì ta nên áp dụng giá đó để đưa ra cho nhân dân để làm giá sàn đấu giá”. Sau đó, Trần Văn Đ và Trần Thị T đã thống nhất là lấy mức giá 10.500.000đồng/1 m2 để làm giá khởi điểm cho thuê đất lâu dài, vị trí tại khu vực sân phía Tây nhà văn hóa, diện tích là khoảng trên dưới 60m2.

Đến ngày 01/4/2016, Trần Văn Đ và Trần Thị T đã triệu tập cuộc họp các ban ngành đoàn thể xóm 7 và ban kiến thiết xây dựng nhà văn hóa xóm 7 để họp thống nhất giá sàn cho thuê lâu dài khu đất phía Tây nhà văn hóa. Hội nghị thống nhất giá sàn cho thuê lâu dài là 10.500.000 đồng/m2, với diện tích cho thuê là khoảng trên dưới 60m2. Nội dung hội nghị được lập thành biên bản có chữ ký của Trần Văn Đ và Trần Thị T và các ban ngành đoàn thể xóm 7, xã Mỹ Thắng.

Đến tối cùng ngày 01/4/2016, Trần Văn Đ và Trần Thị T đã triệu tập cuộc họp quân dân chính các ban ngành đoàn thể xóm 7, xã Mỹ Thắng cùng 8 hộ dân có đơn xin thuê đất để tổ chức bỏ phiếu kín cho thuê đất. Trần Văn Đ đã chủ trì hội nghị bỏ phiếu kín và thông báo nội quy của việc bỏ phiếu kín để thuê đất. Sau khi bỏ phiếu kín, anh NLQ3 là người đã được thuê đất lâu dài với giá là: 16.256.000 đồng/1m2. Đến ngày 26/5/2016, Trần Văn Đ và Trần Thị T cùng các ban ngành đoàn thể, Ban kiến thiết xây dựng nhà văn hóa xóm 7, xã Mỹ Thắng đã có biên bản cho thuê đất lâu dài làm nhà xưởng sản xuất với anh NLQ3, diện tích đất cho thuê là 75,6 m2 ở khu vực giáp đường bờ Tây của hồ Sắc. Ngày 29/5/2016, anh Toản đã nộp đủ số tiền: 1.218.953.000 đồng (Một tỷ hai trăm mười tám triệu chín trăm năm mươi ba nghìn đồng) là tiền thuê lâu dài thửa đất trên cho Trần Văn Đ và các ban ngành đoàn thể xóm 7, xã Mỹ Thắng. Sau khi nhận được số tiền trên, Trần Văn Đ, Trần Thị T cùng chi bộ và các ban ngành đoàn thể xóm 7 đã sử dụng vào việc xây dựng nhà văn hóa mới của xóm 7, xã Mỹ Thắng, còn dư số tiền 8.552.000 đồng (tám triệu năm trăm năm mươi hai nghìn đồng) do Trần Thị T cất giữ và đã giao nộp lại cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mỹ Lộc. Sau khi nhận bàn giao diện tích đất được thuê nêu trên, năm 2016, anh Toản đã xây dựng 1 ngôi nhà mái bằng 2 tầng để sản xuất hàng may mặc.

Diện tích 75,6m2 loại đất giáo dục tại thửa đất số 134, tờ bản đồ số 14 của bản đồ địa chính xã Mỹ Thắng lập năm 1993 thuộc xóm 7, xã Mỹ Thắng có giá trị là 75.600.000 đồng (bảy mươi năm triệu sáu trăm nghìn đồng).

Anh NLQ3 là người đã nộp số tiền: 1.218.953.000 đồng (Một tỷ hai trăm mười tám triệu chín trăm năm mươi ba nghìn đồng) để thuê lâu dài thửa đất trên cho Trần Văn Đ và các ban ngành đoàn thể xóm 7, xã Mỹ Thắng. Hiện tại, anh Toản không yêu cầu phải bồi thường,chỉ đề nghị được tiếp tục sử dụng đất và yêu cầu được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 12/2021/HS-ST ngày 30 tháng 3 năm 2020, Tòa án nhân dân huyện Mỹ Lộc, đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Trần Văn Đ và bị cáo Trần Thị T phạm tội “Lạm quyền trong khi thi hành công vụ”.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 357; điểm s, t, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 65 Bộ luật Hình sự; Xử phạt: Trần Thị T 18 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 36 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 30/3/2021.

Ngoài ra, Bản án còn quyết định hình phạt đối với bị cáo Trần Văn Đ, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 31/3/2021, Trần Thị T có đơn kháng cáo với nội dung: bị cáo kêu oan và không nhất trí với quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm; với mức độ vi phạm của bị cáo thì bị cáo chỉ nhận mức phê bình trước chi bộ để rút kinh nghiệm.

Tại phiên toà, bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo cho rằng việc làm của mình đã được các cấp chính quyền cho phép; không gây thiệt hại vì Hội đồng định giá tài sản kết luận đất giáo dục không có giá quy định và đất chỉ cho thuê nếu cần thì đòi lại; trên địa bàn xã nhiều xóm đều như vậy nhưng không bị xử lý nên đề nghị hội đồng xét xử xem xét chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định kết luận về vụ án: Đơn kháng cáo của bị cáo hợp lệ, được xem xét theo trình tự phúc thẩm. Cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Lạm quyền trong khi thi hành công vụ” là đúng người, đúng tội. Tại phiên tòa bị cáo không xuất trình thêm tài liệu, chứng cứ gì mới nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Thị T. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử, căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về phần thủ tục: Đơn kháng cáo của bị cáo Trần Thị T làm trong thời hạn luật định, được Hội đồng xét xử xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2] Xét kháng cáo kêu oan của bị cáo Trần Thị T, Hội đồng xét xử nhận thấy: Tại phiên tòa bị cáo không xuất trình được các chứng cứ chứng minh để bào chữa cho hành vi phạm tội mà mình đã thực hiện. Lời trình bày của bị cáo cho rằng đã làm lợi cho tập thể mà không gây thiệt hại vì Hội đồng định giá tài sản kết luận đất giáo dục không có giá quy định nên không thể xác định thiệt hại vật chất và đất chỉ cho thuê nếu cần thì đòi lại. Tuy nhiên, căn cứ vào Bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng đề ngày 14-01-2021 (BL104-105) và lời trình bày cuả bà Hoàng Thị Xuân – Chủ tịch Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Mỹ Lộc việc xác định các bị cáo gây thiệt hại 75.600.000 đồng là căn cứ theo Bảng giá đất của Ủy ban nhân dân tỉnh Nam Định năm 2014. Như vậy, Kết luận này của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Mỹ Lộc có giá trị tài sản thiệt hại thấp hơn 10 lần so với kết luận tại Bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng đề ngày 13-10-2020 (BL92-93) và ít hơn rất nhiều số tiền các bị cáo thu được từ việc cho thuê lâu dài diện tích đất này là 1.218.953.000 đồng (Một tỷ hai trăm mười tám triệu chín trăm năm mươi ba nghìn đồng), là đã áp dụng có lợi cho các bị cáo. Và, hiện nay điện tích đất các bị cáo cho thuê trái thẩm quyền cũng chưa được các cơ quan có thẩm quyền huyện Mỹ Lộc thu hồi cho tài sản Nhà nước. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ, lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử để kết luận: Ngày 26/5/2016, Trần Văn Đ và Trần Thị T đã có biên bản cho thuê đất lâu dài làm nhà xưởng sản xuất với anh NLQ3, diện tích đất cho thuê là 75,6m2 ở khu vực giáp đường bờ Tây của hồ Sắc. Đây là loại đất có nguồn gốc là đất Giáo dục đã được quy hoạch là đất nhà văn hóa do UBND xã Mỹ Thắng bàn giao để xây dựng nhà văn hóa mới của xóm 7, xã Mỹ Thắng có giá trị là 75.600.000 đồng. Hành vi này của Trần Văn Đ và Trần Thị T đã vượt quá quyền hạn của Trưởng thôn và Bí thư chi bộ thôn trong khi thi hành công vụ về thẩm quyền cho thuê đất theo

gây thiệt hại cho Nhà nước số tiền 75.600.000 đồng. Hành vi phạm tội của bị cáo Trần Văn Đ, Trần Thị T đã cấu thành tội “Lạm quyền trong khi thi hành công vụ”. Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng khoản 1 Điều 357 BLHS để xử phạt các bị cáo, là đúng người, đúng tội, không oan sai. Do xác định động cơ, mục đích của bị cáo Trần Thị T khi cùng bị cáo Định cho thuê đất thuộc quyền sử dụng tập thể là trái thẩm quyền, vi phạm pháp luât nhưng đều xuất phát từ lợi ích chung, muốn tìm nguồn kinh phí để xây nhà văn hóa góp phần vào công cuộc xây dựng nông thôn mới, không có tư lợi cá nhân. Mặt khác, bản thân bị cáo Thanh cũng có nhiều thành tích trong chiến đấu, công tác, luôn là Đảng viên gương mẫu. Trong quá trình làm Bí thư chi bộ bị cáo Thanh nhiệt tình trong công tác, được quần chúng nhân dân tin yêu nên các bị cáo đã được cho được hưởng án treo, là thể hiện sự khoan hồng của pháp luật. Vì vậy, không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo kêu oan và xin chỉ nhận mức phê bình trước chi bộ của bị cáo Trần Thị T.

[3] Về nội dung kháng cáo của bị cáo cho rằng hành vi cho thuê đất của Nhà văn hóa là được sự đồng ý của Lãnh đạo Ủy ban nhân dân xã Mỹ Thắng, nhưng không đưa ra được các chứng cứ để chứng minh nên kháng cáo này của bị cáo không được chấp nhận.

[4] Về đề nghị của bị cáo cho rằng tại các Xóm khác trên địa bàn xã Mỹ Thắng cũng có những việc bán đất để lấy tiền xây dựng công trình của thôn xóm xét đây không thuộc thẩm quyền xét xử phúc thẩm của vụ án. Bị cáo có quyền làm đơn tố giác gửi hoặc đến trực tiếp cơ quan Công an để được giải quyết.

[5] Tại phiên tòa Kiểm sát viên tham gia tố tụng có nêu vấn đề là các Cơ quan tiến hành tố tụng huyện Mỹ Lộc đã 02 lần yêu cầu định giá tài sản với cùng 01 nội dung xác định thiệt hại do hành vi của các bị cáo cho thuê lâu dài diện tích 75,6m2 đất nguồn gốc đất giáo dục và đều cùng do Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Mỹ Lộc thực hiện nhưng lại có kết quả khác nhau. Cơ quan điều tra căn cứ kết luận tại Bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng đề ngày 13-10- 2020 xác định thiệt hại là 757.134.000 đồng, để làm căn cứ khởi tố bị can các bị cáo về tội “Lạm quyền trong khi thi hành công vụ” theo quy định khoản 3 Điều 357 BLHS, sau lại căn cứ kết luận tại Bản kết luận định giá tài sản trong tố tụng đề ngày 14-01-2021 xác định các bị cáo gây thiệt hại 75.600.000 đồng, để làm căn cứ đề nghị truy tố và truy tố các bị cáo theo khoản 1 Điều 357 BLHS, nhưng không có đề xuất Hội đồng xét xử về nội dung này. Hội đồng xét xử nhận thấy Cơ quan Điều tra huyện và Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Mỹ Lộc thực hiện chưa đầy đủ các quy định của Bộ Luật Tố tụng Hình sự và để xác định có hay không có dấu hiệu vi phạm hoạt động tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án thuộc thẩm quyền của Cục Điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Mặc dù, các Cơ quan tiến hành tố tụng huyện Mỹ Lộc có báo cáo giải trình về hai kết luận xác định giá trị thiệt hại của vụ án, nhưng Hội đồng xét xử nhận thấy có sự vi phạm về tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm. Tòa án cấp sơ thẩm kết án các bị cáo về tội “Lạm quyền trong khi thi hành công vụ” áp dung khoản 1 điều 357 BLHS để xử phạt các bị cáo và cho các bị cáo đều được hưởng án treo, là có lợi cho các bị cáo về áp dụng pháp luật. Do bị cáo Trần Văn Đ được Tòa án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo không kháng cáo, bị cáo Thanh kháng cáo kêu oan và các bị cáo không bị kháng nghị theo hướng tăng hình phạt. Nên Hội đồng xét xử không thể hủy án để yêu cầu truy tố xét xử lại theo khung khoản Điều luật mà cơ quan điều tra đã khởi tố đối với các bị cáo, như vậy là làm xấu đi tình trạng của người bị kết án, vi phạm nguyên tắc xét xử phúc thẩm.Vì vậy, Hội đồng xét xử giữ nguyên án sơ thẩm và kiến nghị Tòa án cấp Giám đốc thẩm phối hợp cùng Cục Điều tra Viện kiểm sát xem xét theo thẩm quyền về vấn đề này.

[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[7] Bị cáo Trần Thị T không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm .

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự.

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Thị T. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.

2. Căn cứ vào khoản 1 Điều 357; điểm s, t, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 65 Bộ luật Hình sự; Tuyên bố bị cáo Trần Thị T phạm tội “Lạm quyền trong khi thi hành công vụ” Xử phạt bị cáo Trần Thị T 18 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 36 tháng kể từ ngày 30/3/2021.Giao bị cáo Trần Thị T cho Uỷ ban nhân dân xã Mỹ Thắng, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Trần Thị T không phải nộp.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Tiếp tục Kiến nghị Chủ tịch UBND huyện Mỹ Lộc xử lý, giải quyết thu hồi diện tích 75,6m2 đất nguồn gốc đất giáo dục tại Xóm 7 xã Mỹ Thắng mà các bị cáo cho thuê trái pháp luật, để thu hồi tài sản cho Nhà nước.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người bị thi hành án có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án, thời hiệu thi hành án thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1249
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ số 60/2021/HS-PT

Số hiệu:60/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về