Bản án về tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ số 182/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 182/2023/HS-PT NGÀY 30/11/2023 VỀ TỘI LẠM QUYỀN TRONG KHI THI HÀNH CÔNG VỤ

Ngày 30 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 139/2023/TLPT - HS ngày 03/10/ 2023 đối với bị cáo Bùi Khắc T do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 46/2023/HS-ST ngày 15/8/2023 của Tòa án nhân dân huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 137/2023/QĐXXPT-HS ngày 02/11/2023; Quyết định hoãn phiên tòa số 66/2023/HSPT-QĐ đối với:

- Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Bùi Khắc T; Giới tính: Nam; Tên gọi khác: Không. Sinh ngày 20/12/1982 tại xã T, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh. Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn N, xã T, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh;

Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: Lớp 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do (trước khi phạm tội là Phó Bí thư Chi bộ, Trưởng thôn N, xã T, huyện T). Bị cáo là Đảng viên Đ (hiện đã bị Ủy ban kiểm tra Huyện ủy T4 đình chỉ sinh hoạt Đảng). Con ông Bùi Thanh T1, sinh năm 1947. Con bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1941. Cả hai hiện đang sinh sống tại xã T, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh. Anh, chị, em ruột: có 04 người, bị cáo là con thứ tư. Vợ: Nguyễn Thị H, sinh năm 1985. Con: Có 02 con, con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2016. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú kể từ ngày 01/10/2021 đến nay, hiện đang trú tại xã T, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Khắc T2 - Luật sư thuộc văn phòng A - Đoàn Luật sư H1 (Có mặt).

- Trong vụ án còn có bị cáo Nguyễn Phi M và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan khác nhưng không có kháng cáo, không bị kháng nghị nên không triệu tập đến phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, bản án sơ thẩm nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong khoảng thời gian từ năm 2017 đến năm 2019, Bùi Khắc T – là Trưởng thôn, Phó Bí thư Chi bộ thôn; Nguyễn Phi M – là Bí thư Chi bộ thôn N, xã T, sau khi biết được thông tin nghĩa trang của UBND xã T sẽ được quy hoạch lại, mặc dù không có tên trong thành viên Ban quản trang, không được giao nhiệm vụ, không có thẩm quyền quyết định việc thu hồi, bán đất nông nghiệp làm đất nghĩa trang, tuy nhiên tại cuộc họp Chi bộ thôn N, xã T, có sự tham gia của Nguyễn Phi M (không có đại diện của UBND xã T), Bùi Khắc T đã đặt vấn đề quy hoạch mở rộng đất nghĩa trang bằng cách thu hồi đất nông nghiệp, đền bù cho những người có đất ruộng để hoang, sau đó làm đường đi, phân lô và bán cho người dân có nhu cầu làm đất nghĩa trang. Biết việc này là không thuộc thẩm quyền, trái quy định, tuy nhiên Chi bộ và Nguyễn Phi M vẫn đồng ý thực hiện.

Mặc dù không có tên trong danh sách Ban quản trang, không được giao nhiệm vụ, thẩm quyền nhưng đã có hành vi lạm quyền, thực hiện quyền hạn vượt mức cho phép, tổ chức thu hồi trái phép đất nông nghiệp giáp ranh với khu quy hoạch nghĩa trang Cồn Nhòi của 05 hộ dân trên địa bàn thôn N, sau đó tiến hành đền bù, cải tạo, phân lô rồi bán đất trái quy định cho những người dân có nhu cầu chôn cất người thân trên địa bàn xã T và một số hộ dân ngoài địa bàn.

Tổng diện tích đất mà Bùi Khắc T đã tổ chức thu hồi, đền bù trái quy định là 3496,2 m2, gây thiệt hại cho Nhà nước số tiền 88.774.200 đồng; tổng diện tích đất mà Nguyễn Phi M (cùng Bùi Khắc T) đã tổ chức thu hồi, đền bù trái quy định là 2.944,2 m2 gây thiệt hại cho Nhà nước 62.885.400 đồng, đồng thời gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Tổng số tiền bán đất trái quy định Bùi Khắc T và Nguyễn Phi M thu được là 969.200.000 đồng, số tiền này các bị cáo sử dụng chi đền bù đất, chi làm đường, cải tạo đất và chi các hoạt động của thôn, trong đó số tiền Bùi Khắc T không chứng minh được mục đích chi là 243.804.000 đồng. Bùi Khắc T có 02 lần thực hiện việc thu hồi, đền bù đất trái quy định, cụ thể: Lần 1 vào năm 2017 đối với 4 hộ dân (có sự tham gia và thống nhất với Nguyễn Phi M). Lần 2 vào năm 2019 tự ý thu hồi đất của hộ ông Trương Quang T3. Với hành vi phạm tội nêu trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 46/2023/HS-ST ngày 15/8/2023 của Tòa án nhân dân huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Bùi Khắc T phạm tội “Lạm quyền trong khi thi hành công vụ”.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 357, điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54, điều 17, điều 58, Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Bùi Khắc T 36 (ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

Áp dụng khoản 1 Điều 357, điểm s, khoản 1, 2 điều 51, điều 17, điều 58, điều 65 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Phi M từ 18 tháng đến 24 tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách từ 36 tháng đến 48 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo cho UBND xã T quản lý, giám sát trong thời gian thử thách.

Hình phạt bổ sung: Áp dụng khoản 5 Điều 357 BLHS: Phạt bổ sung bị cáo Bùi Khắc T số tiền 10.000.000 đồng (mười triệu đồng). Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Phi M. Về trách nhiệm dân sự:

+ Buộc 48 hộ dân phải trả lại diện tích đất xây dựng nghĩa trang trái với quy định pháp luật đã mua của Bùi Khắc T và Nguyễn Phi M cho UBND xã T quản lý, bố trí sử dụng theo quy hoạch đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt và quy chế quản lý nghĩa trang của địa phương.

+ 41 hộ dân đã bỏ tiền ra mua đất của Bùi Khắc T và Nguyễn Phi M được nhận lại số tiền tương ứng với diện tích đất phải trả.

+ Ghi nhận sự tự nguyện của các bị cáo về việc liên đới chịu trách nhiệm trả lại số tiền cho 41 hộ dân đã mua đất với kỷ phần cụ thể như sau: Bị cáo Bùi Khắc T chịu trách nhiệm nộp lại số tiền là 733.276.500 đồng. Bị cáo đã nộp được số tiền là 233.800.000 đồng. Bùi Khắc T còn phải chịu trách nhiệm nộp lại số tiền là 499.476.500 đồng. Nguyễn Phi M tự nguyện chịu trách nhiệm nộp lại số tiền là 164.328.500 đồng.

+ Buộc Thôn N, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh phải nộp lại số tiền 71.595.000 đồng để Cơ quan thi hành án trả lại cho 41 hộ dân đã mua đất trong quá trình khắc phục hậu quả.

- Tiếp tục tạm giữ số tiền 233.800.000 đồng để đảm bảo việc thi hành án. Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Trong hạn luật định, ngày 23/8/2023 bị cáo Bùi Khắc T kháng cáo xin được giảm nh hình phạt và xin được hưởng án treo. Tại phiên tòa bị cáo thay đổi một phần nội dung kháng cáo, cụ thể bị cáo rút kháng cáo xin hưởng án treo và giữ nguyên kháng cáo xin giảm nh hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh tại phiên tòa sau khi tóm tắt nội dung vụ án, đánh giá, phân tích tính chất mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nh trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 BLTTHS chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa án sơ thẩm theo hướng giảm nh một phần hình phạt từ 06 đến 09 tháng tù cho bị cáo Bùi Khắc T. Bị cáo, luật sư bào chữa cho bị cáo HĐXX xem xét giảm mức và xử bị cáo mức án thấp nhất nhằm thể hiện tính khoan hồng, nhân đạo của pháp luật

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đơn kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định nên được chấp nhận xem xét.

[2] Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Về nội dung: Quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, phiên tòa phúc thẩm bị cáo hoàn toàn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, phù hợp vời thời gian, địa điểm phạm tội. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để khẳng định: Trong khoảng thời gian từ năm 2017 đến năm 2019, Bùi Khắc T – là Trưởng thôn, Phó Bí thư Chi bộ thôn; Nguyễn Phi M – là Bí thư Chi bộ thôn N, xã T mặc dù không có tên trong danh sách Ban quản trang, không được giao nhiệm vụ, thẩm quyền nhưng đã có hành vi lạm quyền, thực hiện quyền hạn vượt mức cho phép, tổ chức thu hồi trái phép đất nông nghiệp giáp ranh với khu quy hoạch nghĩa trang Cồn Nhòi của 05 hộ dân trên địa bàn thôn N, sau đó tiến hành đền bù, cải tạo, phân lô rồi bán đất trái quy định cho những người dân có nhu cầu chôn cất người thân trên địa bàn xã T và một số hộ dân ngoài địa bàn.

Tổng diện tích đất mà Bùi Khắc T đã tổ chức thu hồi, đền bù trái quy định là 3496,2 m2, gây thiệt hại cho Nhà nước số tiền 88.774.200 đồng; tổng diện tích đất mà Nguyễn Phi M (cùng Bùi Khắc T) đã tổ chức thu hồi, đền bù trái quy định là 2.944,2 m2 gây thiệt hại cho Nhà nước 62.885.400 đồng, đồng thời gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Tổng số tiền bán đất trái quy định Bùi Khắc T và Nguyễn Phi M thu được là 969.200.000 đồng, số tiền này các bị cáo sử dụng chi đền bù đất, chi làm đường, cải tạo đất và chi các hoạt động của thôn, trong đó số tiền Bùi Khắc T không chứng minh được mục đích chi là 243.804.000 đồng.

Bùi Khắc T có 02 lần thực hiện việc thu hồi, đền bù đất trái quy định, cụ thể: Lần 1 vào năm 2017 đối với 4 hộ dân (có sự tham gia và thống nhất với Nguyễn Phi M). Lần 2 vào năm 2019 tự ý thu hồi đất của hộ ông Trương Quang T3 nên phải chịu tình tiết định khung “Phạm tội 02 lần trở lên”.

Do đó, bản án hình sự sơ thẩm số 46/2023/HS-ST ngày 15/8/2023 của Tòa án nhân dân huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh quyết định tuyên bố bị cáo Bùi Khắc T phạm tội “Lạm quyền trong khi thi hành công vụ” và xử phạt bị cáo 36 tháng tù là đúng người, đúng tội, có căn cứ, đúng pháp luật, không oan sai.

[4] Xét nội dung kháng cáo yêu cầu xem xét giảm nh hình phạt và xin được hưởng treo của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan tổ chức nên cần phải xử lý nghiêm trước pháp luật nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung đối với xã hội. Tuy nhiên quá trình giải quyết, xét xử vụ án và tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo đã thành khẩn khai báo, thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, thừa nhận bản án sơ thẩm đã xét xử khách quan đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, tích cực bồi thường khắc phục hậu quả và không yêu cầu làm r thêm bất kỳ tình tiết nào của vụ án. Mặt khác bản thân bị cáo đã từng phục vụ trong quân đội, tại xã tham gia quản lý lực lượng dự bị động viên, có hai nhiệm kỳ làm trưởng thôn, trong quá trình đó, bị cáo luôn nhiệt tình, tận tâm, trách nhiệm với công việc của thôn. Việc bị cáo phạm tội cũng có một phần là do thiếu hiểu biết pháp luật, nhưng phần khác cũng xuất phát từ trách nhiệm mong muốn huy động các nguồn lực để sớm hoàn thành các mục tiêu xây dựng nông thôn mới của xã nhà. Và trên thực tế thì thôn N xã T do bị cáo làm trưởng thôn là một trong những đơn vị dẫn đầu trong việc xây dựng nông thôn mới được các cấp chính quyền địa phương ghi nhận, khen thưởng. Những tình tiết này đã được cấp sơ thẩm xem xét đầy đủ và xử bị cáo mức án 36 tháng tù là phù hợp. Tuy nhiên trong thời gian chuẩn bị xét xử phúc thẩm, bị cáo đã tự nguyện nộp toàn bộ số tiền phần hình phạt bổ sung là 10.000.000 đồng và tiền án phí; Ngoài ra đã chủ động hoàn trả lại cho 22 người có quyền lợi liên quan với tổng số tiền là 459.400.000 đồng, trên tổng số 499.476.500 đồng mà bị cáo đã tự nguyện thống nhất thỏa thuận hoàn trả cho người mua đất tại cấp sơ thẩm, hiện chỉ còn phải trả lại 40.076.500 đồng; 29 người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và nhiều công dân thôn N xã T có đơn xin cho bị cáo được hưởng án treo,. Chính quyền đại phương xã T xác nhận bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, là lao động chính trong gia đình, m tham gia khangs chiến được tặng thưởng huy chương kháng chiến hạng nhì. Vì vậy Hội đồng xét xử xét thấy rằng cần chấp nhận kháng cáo và giảm nh cho bị cáo một phần hình phạt là 12 tháng tù, nhằm thể hiện tính khoan hồng của pháp luật là có căn cứ và phù hợp.

[5]. Về án phí: Kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí HSPT theo quy định của pháp luật.

Vì các trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật TTHS, :

Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Bùi Khắc T, sửa bản án hình sự sơ thẩm số 46/2023/HS-ST ngày 15/8/2023 của Tòa án nhân dân huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh về phần hình phạt.

[1] Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Bùi Khắc T phạm tội “Lạm quyền trong khi thi hành công vụ” [2] Về hình phạt: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 357, điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54, điều 17, điều 58, Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Bùi Khắc T 24 (Hai bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

Hình phạt bổ sung: Áp dụng khoản 5 Điều 357 BLHS: Phạt bổ sung bị cáo Bùi Khắc T số tiền 10.000.000 đồng (mười triệu đồng), nhưng được khấu trừ vào số tiền 10.000.000 đồng bị cáo đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thạch Hà, theo biên lai số 0006261, ngày 29/11/2023.

[3] Về án phí: Căn cứ Điều 136 BLTTHS; điểm d khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

108
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ số 182/2023/HS-PT

Số hiệu:182/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về