Bản án về tội làm nhục người khác số 41/2022/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ỨNG HÒA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 41/2022/HSST NGÀY 22/07/2022 VỀ TỘI LÀM NHỤC NGƯỜI KHÁC

Ngày 22 tháng 7 năm 2022, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện ứng Ho à xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 42/2022/HSST ngày 04/7/2022 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 37/2022/QĐXXST-HS ngày 08/7/2022 đối với bị cáo:

Vương Văn Đ - sinh năm 1987; nơi sinh, nơi ĐKHKTT và nơi ở: thôn T, thị trấn Vân Đình, huyện Ứng Hòa, TP. Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vương Văn T (thương binh - đã chết) và bà Nguyễn Thị H; chưa có vợ, con. Tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân:

+ Ngày 20/8/2004 bị Công an huyện ứng Hòa xử phạt hành chính bằng hình thức “Cảnh cáo” về hành vi Đánh bạc ;

+ Ngày 06/4/2006 bị Công an huyện ứng Hòa xử phạt hành chính bằng hình thức “Cảnh cáo” về hành vi Đánh bạc ;

+ Ngày 29/6/2009 bị TAND huyện ứng Hòa xử phạt 12 tháng tù, về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”;

+ Ngày 08/9/2014 bị TAND huyện Mỹ Đức xử phạt 04 tháng tù về tội “Đánh bạc”(đều đã được xóa án tích). Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại: Chị Dương Thị H - sinh năm 1973 (có mặt)

Trú tại: Tổ 9, phường Thống Nhất, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình

* Người làm chứng:

- Triệu Sinh Đ - sinh năm 1994 (vắng mặt)

- Triệu Sinh N - sinh năm 1998 (vắng mặt)

- Triệu Thị H - sinh năm 1983 (vắng mặt)

- Phạm Thị T - sinh năm 1993 (vắng mặt)

- Dương Thị T - sinh năm 1970 (vắng mặt)

Đều trú tại: phường Thống Nhất, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng tháng 8/2020, chị Dương Thị H, sinh năm 1973, trú tại tổ 9, phường Thống Nhất, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình có quen biết với Vương Văn Đ, sinh năm 1987, trú tại thôn Thanh Ảm, thị trấn Vân Đình, huyện ứng Hòa, TP. Hà Nội. Sau đó, giữa Hà và Đ nảy sinh tình cảm nam nữ rồi chung sống với nhau như vợ chồng tại nhà trọ, thuộc xã Trường Thịnh, huyện ứng Hòa, TP. Hà Nội. Trong thời gian ở với nhau, Đ và Hà thường xuyên sử dụng điện thoại của nhau nên Đ biết Hà có sử dụng 02 tài khoản Facebook có tên là “Hà Duong”; “Hà Nam Duong” và 01 tài khoản Zalo có tên “Ha Duong” cũng như mật khẩu đăng nhập vào các tài khoản này. Ngoài ra, được sự cho phép của Hà thì Đ có sử dụng điện thoại của Đ quay, chụp lại video, hình ảnh khỏa thân của Hà rồi lưu vào máy điện thoại của mình. Quá trình chung sống với nhau đến khoảng tháng 6/2021 thì Đ và Hà xảy ra mâu thuẫn cãi chửi nhau nên chia tay và không sinh sống với nhau nữa. Do bực tức việc Hà chia tay mình và muốn làm nhục Hà trước mọi người nên ngày 30/6/2021 Đ đã sử dụng điện thoại Iphone6 của Đ đăng nhập vào tài khoản Facebook “Hà Duong” của Hà, rồi dùng tài khoản này gửi hình ảnh khỏa thân của Hà cho Triệu Sinh N, sinh năm 1998; Triệu Sinh Đ, sinh năm 1994; Phạm Thị T, sinh năm 1993; chị Dương Thị T, sinh năm 1970; chị Triệu Thị H, sinh năm 1983, đều ở phường Thống Nhất, thành phố Hòa Bình (là các con trai, con dâu, bạn và em họ của Hà). Đồng thời Đ đăng nhập vào tài khoản Facebook “Hà Nam Duong” của Hà và đăng 01 video ghi lại hình ảnh khỏa thân của Hà lên mục tin ngày ở chế độ công khai. Đến ngày 02/7/2021 Đ tiếp tục sử dụng điện thoại của Đ đăng nhập vào tài khoản Zalo “Ha Duong” của Hà và đăng 04 hình ảnh khỏa thân của Hà lên mục nhật ký ở chế độ công khai.

Sau khi phát hiện bị đăng, gửi các hình ảnh, video trên thì chị Hà đã dùng điện thoại của mình quay lại đoạn video đăng trên mục tin ngày Facebook và gửi đơn tố cáo đến Cơ quan CSĐT Công an huyện ứng Hòa trình báo sự việc. Tại Cơ quan CSĐT Công an huyện Ứng Hòa, Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

Ngày 19/10/2021, Cơ quan CSĐT Công an huyện ứng Hòa ra Quyết định trưng cầu giám định 02 video do chị Hà cung cấp để giám định có hay không việc cắt ghép, chỉnh sửa nội dung video.

Tại bản Kết luận giám định số 7728/C09-P6 ngày 05/11/2021 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an, kết luận: “Không phát hiện dấu vết cắt ghép, chỉnh sửa nội dung trong tệp video gửi giám định”.

Qúa trình điều tra, Đ đã tự nguyện bồi thường cho chị Hà 10.000.000đ (Mười triệu đồng), chị Hà đã nhận đủ, không yêu cầu Đ phải bồi thường gì thêm và có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho Đ.

Đối với chiếc điện thoại Đ sử dụng để gửi hình ảnh khỏa thân của chị Hà cho mọi người, Đ khai đã đánh rơi trong quá trình sử dụng sau đó và không nhớ đã bị rơi ở đâu lên CQĐT không thu giữ được.

Bản cáo trạng số 41/CT-VKS ngày 04/7/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện ứng Hòa truy tố Vương Văn Đ về “Tội làm nhục người khác” quy định tại điểm a, e khoản 2 Điều 155 của Bộ luật Hình sự (Viết tắt: BLHS).

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị áp dụng: điểm a, e khoản 2 Điều 155; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 65 của BLHS, xử phạt bị cáo từ 12 đến 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 đến 30 tháng. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự.

- Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội nhu nội dung cáo trạng, tỏ ra ăn năn hối hận, có lời xin lỗi bị hại, đề nghị Hội đồng xét xử (Viết tắt: HĐXX) giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được cải tạo tại địa phương;

- Người bị hại xác nhận diễn biến sự việc nhu nội dung cáo trạng đã nêu, xác nhận việc bồi thường đã giải quyết xong và không có yêu cầu, đề nghị gì khác; đồng thời xin giảm nhẹ hình phạt, xin cho bị cáo được cải tạo tại địa phương.

- Những người làm chứng đều vắng mặt không có lý do.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Việc thực hiện và áp dụng pháp luật: Qúa trình tiến hành tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố, Điều tra viên và Kiểm sát viên đều thực hiện đúng, đầy đủ các quy định của pháp luật.

[2] Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội. Lời khai tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp lời khai của người bị hại, người làm chứng, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, HĐXX có đủ căn cứ xác định: Do mâu thuẫn, bực tức về việc chị Dương Thị H chia tay, không còn chung sống với nhau như vợ chồng nữa nên ngày 30/6/2021 và ngày 02/7/2021, Vương Văn Đ đã sử dụng điện thoại Iphon6 của mình đang lưu giữ các video và hình ảnh khỏa thân của chị Hà mà Đ đã quay, chụp trước đây khi hai người sống cùng nhau rồi đăng nhập vào tài khoản Facebook “Hà Duong”, tài khoản Facebook “Hà Nam Duong” và tài khoản Zalo “Hà Duong” của chị Hà và dùng tài khoản này gửi video, hình ảnh khỏa thân của chị Hà lên mục nhật ký tin ngày ở chế độ công khai cho các con trai, con dâu, bạn và em họ của Hà, nhằm mục đích làm nhục chị Hà.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ trực tiếp xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm của người khác được pháp luật bảo vệ, mà còn xâm phạm đến thuần phong mỹ tục, truyền thống văn hóa dân tộc, xâm phạm đến sự quản lý của Nhà nước về việc duy trì, phát triển nếp sống văn hóa, văn minh. Việc đăng ảnh, video khỏa thân manh tính kích dục lên mạng xã hội là hành vi mang tính chất đồi trụy bị Nhà nước nghiêm cấm. Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi nhung cố ý thực hiện nhằm mục đích xúc phạm danh dự, nhân phẩm của chị Hà nên đã cấu thành “Tội làm nhục người khác” được quy định tại Điều 155 của BLHS. Hành vi liên tiếp 03 lần đưa hình ảnh nhạy cảm của chị Hà lên mạng viễn thông (Zalo, Facebook) là tình tiết định khung quy định tại các điểm a, e khoản 2 Điều 155 của BLHS.

Bởi vậy, cáo trạng truy tố bị cáo về tội danh và khung hình phạt như đã viện dẫn là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng, quá trình điều tra và tại phiên tòa đều thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải, đã bồi thường xong về trách nhiệm dân sự để khắc phục hậu quả cho người bị hại, người bị hại xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo; bị cáo có bố là thương binh, bị nhiễm chất độc hóa học; bản thân bị cáo đang được hưởng trợ cấp ưu đãi hàng tháng diện con người hoạt động kháng chiến nhiễm chất độc hóa học, nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm dân sự quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của BLHS.

[5] Căn cứ tính chất của hành vi phạm tội, trước diễn biến của loại hình tội phạm này đang có chiều hướng phức tạp và gia tăng, khi quyết định hình phạt HĐXX thấy cần phải xử lý nghiêm nhằm góp phần đẩy lùi, phòng ngừa chung cho toàn xã hội. Tuy nhiên, xét thái độ ăn năn hối cải của bị cáo, mối quan hệ giữa bị cáo và bị hại; xét việc bị cáo không có tình tiết tăng nặng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ; hành vi phạm tội chỉ là bột phát nhất thời, do bức xúc, không kiềm chế được bản thân; bị cáo có đơn xin giảm nhẹ hình phạt được chính quyền địa phương xác nhận; người bị hại cũng tha thiết xin giảm nhẹ hình phạt, xin cho bị cáo được cải tạo tại địa phương. Về nhân thân, ngoài lần phạm tội này bị cáo chấp hành chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân tại nơi cư trú, làm việc, các lần vi phạm trước đây đều đã được xóa án tích, đều được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính; lần phạm tội này thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Mặt khác, xét hoàn cảnh gia đình và bản thân hiện tại của bị cáo nên HĐXX thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà chỉ cần áp dụng hình phạt tù có điều kiện quy định tại Điều 65 của BLHS. Với hình phạt này cũng đủ để cải tạo, giáo dục bị cáo cũng như răn đe, phòng ngừa chung; phù hợp hướng dẫn của Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 và Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15/4/2022, sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TANDTC; đồng thời, cũng thể hiện tính chất khoan hồng của pháp luật và chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước đối với người phạm tội.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Qúa trình điều tra bị cáo đã thỏa thuận bồi thường thiệt hại về danh dự, nhân phẩm cho chị Hà 10.000.000đ (Mười triệu đồng). Chị Hà xác nhận việc này và không có yêu cầu, đề nghị gì khác về việc bồi thường nên HĐXX chấp nhận và không đặt ra xem xét giải quyết.

[7] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Bị cáo, người bị hại được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a, e khoản 2 Điều 155; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự; Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự; Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15/4/2022, sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án.

Tuyên bố bị cáo Vương Văn Đ phạm tội “Tội làm nhục người khác”.

Xử phạt Vương Văn Đ 12 (Mười hai) tháng tù nhung cho hưởng án treo, thời gian thử thánh 24 (Hai mươi bốn) tháng kể từ ngày tuyên án (22/7/2022).

Giao bị cáo Vương Văn Đ UBND thị trấn Vân Đình, huyện ứng Hòa, TP. Hà Nội giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì có thể bị buộc phải chấp hành hình phạt tù của bản án này. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật Hình sự.

Xác nhận việc bị cáo đã bồi thường xong về trách nhiệm dân sự cho bị hại số tiền là 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng), người bị hại đã nhận đủ số tiền này và không có yêu cầu, đề nghị gì khác.

Bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người bị hại được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

396
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội làm nhục người khác số 41/2022/HSST

Số hiệu:41/2022/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ứng Hòa - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về