Bản án về tội làm nhục người khác số 09/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ GIANG

BẢN ÁN 09/2023/HS-PT NGÀY 16/05/2023 VỀ TỘI LÀM NHỤC NGƯỜI KHÁC

Ngày 16 tháng 5 năm 2023, tại Phòng xử án hình sự, trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang xét xử phúc thẩm công khai Vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 10/2023/TLPT-HS ngày 06/4/2023 đối với Bản án sơ thẩm số 10/2023/HS- ST ngày 02/3/2023 của Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang.

Bị cáo bị kháng cáo: Trn Văn  T (Tên gọi khác: không), sinh ngày 16 tháng 6 năm 1979 tại huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang; nơi cư trú: Thôn Vĩnh Chính, xã Vĩnh Hảo, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang; số CCCD: 002079003430 cấp ngày 09/5/2021, nơi cấp Cục Cảnh sát QLHC về TTXH;

nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 03/12; dân tộc: Kinh;

giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn Được và bà Nguyễn Thị Tuất; có vợ là Vũ Thị Cúc, sinh năm 1977; con: Có 02 con; tiền án, tiền sự, nhân thân: không;

Bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện tại ngoại tại thôn Vĩnh Chính, xã Vĩnh Hảo, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang; có mặt.

Bị hại kháng cáo: Chị Lương Thị  T4, sinh năm 1982; địa chỉ: Thôn Vĩnh Chính, xã Vĩnh Hảo, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáoTrần Văn  T và bị hại Lương Thị  T4 có quan hệ hàng xóm láng giềng. Vào năm 2016,  T,  T4 cùng một số gia đình trong thôn tổ chức đi du lịch lễ hội hoa tam giác mạch tại huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang, nên T và T4 đã nảy sinh tình cảm yêu đương với nhau. Sau khi về,  T và  T4 nhiều lần gặp gỡ và quan hệ tình dục với nhau tại các nhà nghỉ ở địa bàn các xã Hùng An, thị trấn Việt Quang, thị trấn Vĩnh Tuy, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang ( T không nhớ thời gian cụ thể). Trong thời gian có quan hệ tình cảm với nhau,  T4 còn nhiều lần cho  T vay mượn tiền.

Đến khoảng tháng 4/2021, do ghen tuông, nghi ng ờ  T4 có quan hệ với người đàn ông khác nên  T sử dụng tài khoản mạng xã hội facebook có tên "Trần  T" của mình kết bạn với tài khoản facebook có tên "Huong Nguyên" của Nguyễn Thị H, sinh năm 1986, trú tại thôn Nà Bó, xã Khánh Thiện, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái (H là em dâu của Lương Thị  T4); sau khi kết bạn,  T sử dụng tài khoản facebook của mình nhắn tin gửi qua messenger cho tài khoản nick facebook "Huong Nguyên" 01 (một) bức ảnh Lương Thị  T4 cởi trần quấn khăn tắm màu trắng. Sau khi nhận được tin nhắn, H đã sử dụng điện thoại di động và chụp lại hình ảnh tin nhắn  T gửi rồi gửi cho Lương Thị Bộ, sinh năm 1973 (Bộ là chị gái của  T4), lúc này Bộ bảo H gửi lại hình ảnh này cho  T4 và hỏi xem có biết ai không, sau khi H hỏi thì  T4 nói biết, là người ở xã Vĩnh Hảo gần nhà mình. Sau khi biết thông tin do  T4 nói, H đã g ửi hình ảnh của  T4 qua tin nhắn messenger cho  T và hỏi "sao anh lại gửi vào nick Lương Tôm Tôm?". Biết H là người nhà của  T4,  T nhắn lại "chị nhà em đẹp thế còn gì", đồng thời  T gửi tiếp nhiều hình ảnh đen trắng  T4 mặc quần áo bình thường cho H nhưng H nhắn lại "từ nay đừng gửi ảnh cho tôi nữa nhé".

Đến khoảng đầu tháng 10/2021, Trần Văn  T tiếp tục sử dụng tài khoản facebook "Trần  T" của mình gửi hình ảnh Lương Thị  T4 mặc áo lót màu đen và quần dài mầu đen qua messeger cho tài khoản facebook có tên "Lan A Trần" của Trần Lan A, sinh năm 1993, tạm trú tại: Số 409 A4, ngõ 102 Nguyễn Huy Tưởng, quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội (Lan A là con gái riêng của ông Trần Công Bào, chồng  T4). Khi nhận được ảnh do  T gửi, Lan A có hỏi thì được  T cho biết người trong ảnh là Lương Thị  T4, nên Lan A đã chụp lại hình ảnh gửi tin nhắn qua tài khoản mạng xã hội zalo có tên "Lan A" cho tài khoản zalo có tên "Anh Chỉnh" của Trần Văn Chỉnh, sinh năm 1974, trú tại: Thôn Vĩnh Chính, xã Vĩnh Hảo, huyện Bắc Quang (Chỉnh là anh trai con bác của Lan A), nhận được tin nhắn của Lan A, Chỉnh đã đem đến nhà cho ông Trần Công Bào, sinh năm 1955, trú tại: Thôn Vĩnh Chính, xã Vĩnh Hảo, huyện Bắc Quang (là chồng của  T4) xem.

Sau khi gửi hình ảnh của Lương Thị  T4 cho Trần Lan A,  T tiếp tục gửi hình ảnh một người phụ nữ khác có hình dáng tương tự như  T4 trong tình trạng cởi trần, tay cầm chiếc khăn màu xanh che bộ phận sinh dục qua tin nhắn messeger từ tài khoản tên “Trần  T" đến tài khoản facebook có tên “Nông Thuyền” kèm theo tin nhắn “đây thông gia nhà bà đẹp nhỉ”. Tuy nhiên, lúc này anh Ma Văn Vực, sinh năm 2000, trú tại: Thôn Me Thượng, xã Vô Điếm, huyện Bắc Quang (Vực là con trai chị Thuyền và là con rể của  T4) đang cầm điện thoại của chị Thuyền nên đã đọc được tin nhắn, sau khi xem tin nhắn xong Vực đã chụp lại hình ảnh và gửi vào tài khoản messeger “Lương Tôm Tôm" cho Lương Thị  T4 xem và xóa hình ảnh đã gửi trên điện thoại di động.

Đến ngày 15/10/2021, Lương Thị  T4 cùng chồng là Trần Công Btổ chức sinh nhật cho con gái là Trần Anh Thư, sinh năm 2009, trú tại: Thôn Vĩnh Chính, xã Vĩnh Hảo, huyện Bắc Quang, lúc này Thư mượn điện thoại di động của  T4 và sử dụng tài khoản facebook có tên "Lương Tôm Tôm" của Lương Thị  T4 để quay và phát trực tiếp buổi sinh nhật của mình thì thấy có nick facebook "Trần  T" đăng tải hình ảnh  T4 cởi trần mặc áo lót ngực và quần dài mầu đen trên phần bình luận nên Thư đã xóa ảnh đi và nói cho  T4 biết. Sau khi biết việc  T gửi hình ảnh của mình cho mọi người xem,  T4 xấu hổ và bức xúc nên đã gặp và yêu cầu  T xóa ảnh của  T4 đi đồng thời đòi lại số tiền 35.000.000 đồng (ba mươi lăm triệu đồng)  T đã mượn của  T4 trong thời gian quan hệ tình cảm với nhau nhưng  T không nói gì. Ngày 12/12/2021, Lương Thị  T4 đã viết đơn đề nghị Công an xã Vĩnh Hảo, huyện Bắc Quang giải quyết về việc Trần Văn  T vay tiền của  T4 và có quan hệ tình cảm với  T4.

Quá trình giải quyết tại Công an xã Vĩnh Hảo,  T đã trực tiếp trả cho  T4 số tiền 10.000.000 đồng (mười triệu đồng), còn lại 25.000.000 đồng (Hai mươi lăm triệu đồng)  T hẹn sẽ trả cho chị  T4 vào ngày 27/01/2022. Đến ngày 28/3/2022, Lương Thị  T4 tiếp tục có đơn tố cáo Trần Văn  T có quan hệ tình cảm với  T4 và đăng hình ảnh của  T4 lên mạng xã hội làm ảnh hưởng đến uy tín, danh dự và mối quan hệ gia đình của  T4; đề nghị Cơ quan điều tra Công an huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang điều tra làm rõ và xử lý theo quy định của pháp luật.

Ngày 05/04/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Quang ban hành Quyết định trưng cầu giám định số 52/QĐ-CQCSĐT, trưng cầu Viện khoa học hình sự Bộ Công an giám định kỹ thuật số điện tử đối với 01 (một) điện thoại di động vỏ ngoài màu trắng, màn hình cảm ứng nhãn hiệu Iphone 6 Plus, IMEI 354440060948254, bên trong đi ện thoại có gắn 01 thẻ sim Viettel, mặt sau của sim có các số 8984048000011162218, điện thoại cũ đã qua sử dụng do Trần Văn  T giao nộp.

Viện khoa học hình sự Bộ Công an Kết luận giám định số 2134/KL- KTHS, Ngày 28/08/2022 kết luận: “Trong máy điện thoại Iphone mẫu cần giám định”:

- Tìm thấy 5039 hình ảnh (Chi tiết có trong usb kèm theo).

- Không tìm thấy các tin nhắn có trong ứng dụng Messenger giữa tài khoản có tên hiển thị "Trần  T" với tài khoản có tên hiển thị "Lương Tôm Tôm" và tài khoản có tên hiển thị "Độc Tình Đơn".

- Không tìm thấy các tin nhắn có trong ứng dụng Zalo giữa tài khoản có tên hiển thị "Trần  T" với tài khoản có tên hiển thị "Lương Tôm Tôm" và tài khoản có tên hiển thị "Độc Tình Đơn".

- Tìm thấy 12 (mười hai) hình ảnh có nội dung hoặc một phần nội dung giống nội dung trong 05 (năm) bản ảnh mẫu so sánh. Không phát hiện thấy dấu vết cắt ghép, chỉnh sửa nội dung trong các hình ảnh trên (Chi tiết có trong USB kèm theo).

- Không tìm thấy dữ liệu hình ảnh và tin nhắn lưu trữ trong SIM điện thoại mẫu cần giám định.

Kèm theo kết luận gồm có: 01 (một) USB dung lượng 8GB.

Hoàn lại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang toàn bộ đối tượng gửi giám định".

Về trách nhiệm dân sự: Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, bị cáo  T tự nguyện bồi thường cho bị hại  T4 số tiền 10.000.000đ (Mưi triệu đồng) nhưng bị hại từ chối nhận, nên bị cáo  T đã tự nguyện nộp số tiền này cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bắc Quang theo Biên lai thu tiền số 0001760 ngày 17/02/2023.

Về vật chứng của vụ án gồm: 01 (một) điện thoại di động vỏ ngoài màu trắng, màn hình cảm ứng nhãn hiệu Iphone 6 Plus, IMEI 354440060948254, bên trong có gắn 01 thẻ sim Viettel, mặt sau của sim có các số 8984048000011162218, điện thoại cũ đã qua sử dụng; 01 (một) USB có dung lượng 08GB bên trong chứa dữ liệu phục hồi từ điện thoại .

Bản án hình sự sơ thẩm số 10/2023/HS-ST ngày 02/3/2023 của Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang: Căn cứ vào các điểm a, e khoản 2 Điều 155, các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65, Điều 47, 48 của Bộ luật Hình sự; các Điều 584, 585, 586, 592 của Bộ luật Dân sự; Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm d khoản 1 Điều 12 và khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án đã xét xử:

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Văn  T phạm tội “Làm nhục người khác”.

- Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Trần Văn  T 01 (một) năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 02 (hai) năm, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 02/03/2023).

- Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Trần Văn  T có trách nhiệm bồi thường cho bị hại Lương Thị  T4, nơi cư trú: Thôn Vĩnh Chính, xã Vĩnh Hảo, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang số tiền 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng), được khấu trừ số tiền 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng) bị cáo  T đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bắc Quang theo Biên lai thu tiền số 0001760 ngày 17/02/2023.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, tiền án phí sơ thẩm và quyền kháng cáo của bị cáo, bị hại theo quy định của pháp luật.

Ngày 13/3/2023, bị hại Lương Thị  T4 có đơn kháng cáo với nội dung: Trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã không cung cấp đầy đủ chứng cứ cho Toà án về tin nhắn của bị cáo  T đe doạ chị để tống tiền chị; trong "Độc Tình Đơn" điện thoại của bị cáo  T có tổng số 05 bức ảnh, trong đó bị cáo đã gửi 03 bức ảnh cho những người thân của chị xem nhưng Công an huyện Bắc Quang không điều tra; mức bồi thường về trách nhiệm dân sự cấp sơ thẩm tuyên là quá thấp so với yêu cầu của chị; mức hình phạt 12 tháng tù cho hưởng án treo đối với bị cáo  T là quá nhẹ. Đề nghị HĐXX phúc thẩm tăng hình phạt đối với bị cáo  T và tăng mức bồi thường trách nhiệm dân sự cho chị.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị hại Lương Thị  T4 giữ nguyên nội dung kháng cáo đề nghị HĐXX phúc thẩm tăng hình phạt đối với bị cáo Trần Văn  T, yêu cầu bị cáo  T tăng mức bồi thường cho chị từ 50.000.000 đồng đến 70.000.000 đồng với lý do: Từ năm 2019 đến nay, gần 3 năm, sau khi chị có quan hệ tình cảm với bị cáo  T đã nhiều lần bị cáo  T có hành vi đe doạ chị dẫn tới ép buộc chị phải có quan hệ tình dục với bị cáo  T; đồng thời bị cáo  T đã nhiều lần đe doạ tống tiền chị, buộc chị phải đưa tiền cho bị cáo  T để bị cáo  T đi đánh bạc, nếu không bị cáo  T sẽ đăng những hình ảnh chị và bị cáo  T có quan hệ tình cảm với nhau lên mạng cũng như gửi các hình ảnh cho những người thân của chị. Đồng thời chị  T4 có cung cấp cho HĐXX một bức ảnh có 03 nội dung tin nhắn với nội dung: “ Hôm qua ai đăng ảnh nên ma đep thê con cai nao dep hon nưa kg” “ May co tin tao gui ảnh nay cho cai mai và thang chien nu kg” “ Tai đa kg lê thi tao noi la tao lam đây”.

Bị cáo Trần Văn  T trình bày: Không nhất trí với nội dung kháng cáo tăng hình phạt và tăng mức bồi thường trách nhiệm dân sự của bị hại  T4; việc bị cáo gửi những hình ảnh của chị  T4 cho những người thân của chị  T4 xuất phát từ việc hai người có tình cảm yêu đương nhau, sau đó  T4 có đi quan hệ tình cảm với người khác; nên do trình độ nhận thức pháp luật còn hạn chế, bị cáo không nhận biết được hành vi đó là vi phạm pháp luật; mong HĐXX xem xét cho bị cáo. Đối với tên "Độc Tình Đơn" hiển thị trên máy điện thoại của bị cáo thì bị cáo không biết địa chỉ là của ai gửi lại hình ảnh cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang, sau khi xem xét nội dung kháng cáo và các nội dung bị hại  T4 trình bày tại phiên toà; phân tích về tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Trần Văn  T Toà án cấp sơ thẩm đã nhận định; quan điểm của Viện kiểm sát không chấp nhận nội dung kháng cáo của bị hại  T4, đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự, giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 10/2023/HS-ST ngày 02/3/2023 của Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang về hình phạt và trách nhiệm dân sự; các nội dung khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị cần được giữ nguyên.

Phần  T4 luận: Bị cáo Trần Văn  T nhất trí với quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang; bị hại Lương Thị  T4 ko nhất trí quan điểm, kết luận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Rất hối hận về hành vi phạm tội của bị cáo;

đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được  T4 tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp đơn kháng cáo của bị hại Lương Thị  T4 làm trong hạn luật định là hợp lệ, theo đúng quy định tại các Điều 331, Điều 332 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự nên được chấp nhận để xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Về nội dung kháng cáo của bị hại Lương Thị  T4, xét thấy:

[3] Về tội danh và định khung hình phạt: Căn cứ lời khai của bị cáo, bị hại, người làm chứng, biên bản xác định hiện trường, sơ đồ hiện trường, bản ảnh, các kết luận giám định, các chứng cứ, tài liệu đồ vật, giữ liệu điện tử khác có trong hồ sơ vụ án. Có đủ cơ sở kết luận: Vào năm 2016, bị cáo  T và bị hại  T4 đã nảy sinh tình cảm yêu đương với nhau và đã nhiều lần gặp gỡ và quan hệ tình dục với nhau tại các nhà nghỉ ở địa bàn các xã Hùng An, thị trấn Việt Quang, thị trấn Vĩnh Tuy, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang. Đến khoảng tháng 4/2021, do ghen tuông, nghi ng ờ chị  T4 có quan hệ tình cảm với người đàn ông khác nên bị cáo  T đã sử dụng tài khoản mạng xã hội facebook với tài khoản tên "Trần  T" nhắn tin và gửi những hình ảnh nhạy cảm của chị Lương Thị  T4 cho các tài khoản facebook messeger, zalo: "Huong Nguyen" của chị Nguyễn Thị H (em dâu của chị  T4); "Lan A Trần" của chị Trần Lan A, (con riêng của chồng chị  T4) và đăng tải hình ảnh nhạy cảm của chị  T4 trong phần bình luận trong bài đăng của facebook có tên "Lương Tôm Tôm" của chị Lương Thị  T4.

[4] Bị cáo Trần Văn  T là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi đăng tải, gửi những hình ảnh nhạy cảm của chị Lương Thị  T4 cho các tài khoản facebook, messeger, zalo là vi phạm pháp luật; song chỉ vì do ghen tuông về mối quan hệ tình cảm không trong sáng giữa bị cáo với chị  T4, bị cáo  T bất chấp kỷ cương, coi thường pháp luật, đã thực hiện hành vi đăng tải hình ảnh nhạy cảm của chị  T4 cho nhiều người thân của chị  T4. Hành vi của bị cáo  T là nguy hiểm cho xã hội, thực hiện với lỗi cố ý, trực tiếp xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm và cuộc sống gia đình của chị  T4, khiến chị  T4 bị xấu hổ, nhục nhã. Bản án hình sự sơ thẩm số 10/2023/HS-ST ngày 02/3/2023 của Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang đã xét xử bị cáo Trần Văn  T về tội “ Làm nhục người khác” theo quy định tại điểm a, e khoản 2 Điều 155 Bộ luật Hình sự với tình tiết “ phạm tội từ hai lần trở lên” “ Sử dụng mạng máy tính, hoặc mạng viễn thông, pH tiện điện tử để phạm tội”; có khung hình phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm là đúng người, đúng tội, không oan.

[5] Về hình phạt: Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá, xem xét toàn diện đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho bị hại  T4 số tiền là 10.000.000 đồng; bị cáo học lớp 03/12, nên trình độ nhận thức pháp luật còn hạn chế;bị cáo phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; có nhân thân tốt; bố đẻ của bị cáo là ông Trần Văn Được đã có thời gian tham gia dân công hỏa tuyến được hưởng chế độ theo Quyết định số 49/2015/QĐ-TTg ngày 14 tháng 10 năm 2015 của Thủ tướng Chính phủ, bản thân bị cáo có tham gia dân quân tự vệ xã Vĩnh Hảo, có nhiều thành tích xuất sắc, nhiều lần được tặng Giấy khen, vợ bị cáo là chị Vũ Thị Cúc Chi hội phụ nữ thôn Vĩnh Chính có nhiều thành tích xuất sắc trong các các phong trào thi đua và nhi ều lần được tặng Giấy khen, Bằng khen; là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Ngoài lần phạm tội này, bị cáo  T luôn chấp hành đầy đủ chính sách pháp luật của Nhà nước, nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng; Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo  T 01 năm tù cho hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách 02 năm là phù hợp với tính chất mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và đúng quy định của pháp luật.

[6] Như vậy việc khởi tố, điều tra của Cơ quan CSĐT và truy tố của Viện kiểm sát, xét xử của Toà án cấp sơ thẩm đối với bị cáo  T đã thực hiện đầy đủ theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; các chứng cứ về các lần bị cáo  T gửi hình ảnh của bị hại cho những người quen của bị hại  T4 đã được nêu cụ thể trong nội dung kết luận điều tra, cáo trạng và bản án sơ thẩm.

[7] Đối với nội dung chị  T4 cho rằng bị cáo  T có hành vi đe doạ, ép buộc chị  T4 phải quan hệ tình dục với bị cáo  T cũng như hành vi tống tiền đối với chị  T4 thì chị  T4 có quyền cung cấp các tài liệu chứng cứ liên quan đến hành vi đe doạ, ép buộc của bị cáo  T đối với chị đến Cơ quan Công an để xem xét giải quyết theo thẩm quyền trong một vụ án khác.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và bị hại không thỏa thuận được về bồi thường trách nhiệm dân sự. Tại phiên tòa sơ thẩm bị hại yêu cầu bị cáo phải bồi thường tổn thất về tinh thần, danh dự, nhân phẩm với số tiền từ 300.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng; tại phiên toà phúc thẩm bị hại thay đổi nội dung bồi thường yêu cầu bị cáo  T có trách nhiệm bồi thường số tiền từ 50.000.000 đồng đến 70.000.000 đồng cho bị hại; tuy nhiên bị cáo  T vẫn không nhất trí với mức bồi thường mà bị hại yêu cầu. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, bị cáo tự nguyện bồi thường cho bị hại  T4 số tiền 10.000.000 đồng nhưng bị hại từ chối nhận nên bị cáo đã tự nguyện nộp số tiền này cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bắc Quang theo biên lai thu tiền số 0001760 ngày 17/02/2023. Toà án cấp sơ thẩm đã nhận định, hành vi của bị cáo  T gây ra, bị hại  T4 chỉ bị tổn thất về tinh thần, không có chứng từ, tài liệu, giấy biên nhận hợp lệ để chứng minh các khoản thiệt hại nào khác. Theo quy định tại khoản 2 Điều 592 Bộ luật Dân sự "Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm không quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định". Mức lương cơ sở do Nhà nước quy định hiện nay là 1.490.000 đồng/tháng. Do đó mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần tối đa cho một người có danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm không quá 14.900.000 đồng; Toà án cấp sơ thẩm đã căn cứ vào các Điều 584, 585, 586, 592 của Bộ luật Dân sự, chấp nhận mức bồi thường 10.000.000 đồng bị cáo  T tự nguyện bồi thường cho bị hại  T4 là phù hợp với quy định của pháp luật.

[9] Đối với việc chị Lương Thị  T4 yêu cầu bị cáo  T phải có trách nhiệm trả số tiền đã vay trước đó của chị là 25.000.000đ (Hai mươi lăm triệu đồng), bị cáo và bị hại không thỏa thuận được về số tiền đã vay mượn trước đó; cấp sơ thẩm xác định đây là  T4 chấp dân sự không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo  T nên chị  T4 có quyền làm đơn khởi kiện bị cáo  T để được xem xét giải quyết trong một vụ án khác theo thủ tục tố tụng dân sự là đúng quy định của pháp luật.

[10] Tại phiên toà phúc thẩm, bị hại  T4 không cung cấp được thêm chứng cứ mới để HĐXX xem xét tăng hình phạt đối với bị cáo  T và tăng mức bồi thường trách nhiệm dân sự cho chị; do đó HĐXX không có căn cứ để xem xét.

[11] Từ những nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự; không chấp nhận nội dung kháng cáo của chị Lương Thị  T4, giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 10/2023/HS-ST ngày 02/3/2023 của Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang. Đây cũng là nhận định để Hội đồng xét xử chấp nhận quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang tại phiên toà.

[12] Về án phí: Bị hại  T4 không phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm, án phí dân sự có giá ngạch theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/NQ/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

[13] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm số 10/2023/HS-ST ngày 02/3/2023 của Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356, Bộ luật Tố tụng hình sự;

các điểm a, e khoản 2 Điều 155; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 50, Điều 65, Điều 47, Điều 48 của Bộ luật Hình sự; các Điều 584, 585, 586, 592 của Bộ luật Dân sự; điểm d khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Không chấp nhận kháng cáo của chị Lương Thị  T4; giữ nguyên Bản án sơ thẩm số 10/2023/HS-ST ngày 02/3/2023 của Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Văn  T phạm tội “Làm nhục người khác”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Trần Văn  T 01 (một) năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 02 (hai) năm, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 02/3/2023).

Giao bị cáo Trần Văn  T cho UBND xã Vĩnh Hảo, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo  T có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa pH trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Người được hưởng án treo có thể bị Tòa án buộc chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo nếu đang trong thời gian thử thách mà cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định tại Điều 87 của Luật Thi hành án hình sự từ 02 lần trở lên. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của Luật Thi hành án hình sự.

3. Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Trần Văn  T có trách nhiệm bồi thường cho bị hại Lương Thị  T4, nơi cư trú: Thôn Vĩnh Chính, xã Vĩnh Hảo, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang số tiền 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng), được khấu trừ số tiền 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng) bị cáo  T đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bắc Quang theo Biên lai thu tiền số 0001760 ngày 17/02/2023.

Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật, bị hại Lương Thị  T4 có quyền liên hệ với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang để nhận số tiền 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng) bị cáo Trần Văn  T đã nộp theo Biên lai thu tiền nêu trên.

4. Về án phí: Bị hại Lương Thị  T4 không phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm và án phí dân sự có giá ngạch.

5. Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm số 10/2023/HS-ST ngày 02/3/2023 của Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang về xử lý vật chứng, án phí hình sự sơ thẩm, điều kiện thi hành án không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

124
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội làm nhục người khác số 09/2023/HS-PT

Số hiệu:09/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về