Bản án về tội làm nhục người khác số 08/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SẦM SƠN, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 08/2024/HS-ST NGÀY 29/01/2024 VỀ TỘI LÀM NHỤC NGƯỜI KHÁC

Ngày 29 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố S, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 75/2023/TLST- HS ngày 27 tháng 11 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 78/2023/QĐXXST- HS ngày 27 tháng 12 năm 2023 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị T - sinh năm 1999; Nơi cư trú: Thôn Đ, xã Q, thành phố S, tỉnh T; nghề nghiệp: LĐTD; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đình S và bà Lê Thị T1; Có chồng là Thừa Văn L và 01 con, sinh năm 2023; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo áp dụng biện pháp ngăn chặn bằng lệnh “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Có mặt

Người bị hại: Chị Nguyễn Thùy L- sinh năm 2009

Người đại diện hợp pháp của người bị hại: Ông Nguyễn Văn T2 - SN 1974 ( Ông T2 và chị L vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt) Địa chỉ: Thôn Q, xã Đ, huyện T, tỉnh T

Người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho người bị hại: Bà Nguyễn Thị Q - Trợ giúp viên Trung T3 trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh T (có mặt)

Người làm chứng:

1. Nguyễn Thị M - Sinh năm 1992 ( có mặt) Địa chỉ: Thôn 8, xã Q, huyện Q, tỉnh T.

2. Nguyễn Thị Thanh T3 - Sinh ngày 06/4/2007 (có mặt)

Người đại diện hợp pháp của chị T3: Bà Tô Thị C (có mặt) Cùng địa chỉ: Thôn 3, xã Q, huyện Q, tỉnh T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do nghi ngờ chị Nguyễn Thùy L có quan hệ tình cảm với chồng mình nên vào khoảng 22 giờ ngày 06/7/2023, Nguyễn Thị T đã rủ Nguyễn Thị M và Nguyễn Thị Thanh T3 cùng đi đến quán karaoke 68 thuộc tổ dân phố Hưng Thông, phường Quảng Thọ, thành phố S để tìm đánh L. Khi đến quán T đưa điện thoại Iphone XS max của mình cho M và nói “tí nữa vào mà thấy nó em đánh thì chị quay nhé”. Sau đó T, M và T3 cùng đi vào quán, đến phòng hát VIP3 thì thấy L. T đi lại vị trí ghế L ngồi chửi bới, dùng tay túm tóc, lấy chiếc điện thoại Nokia của L đập vào đầu, vào mặt L. Sau đó, T và T3 tiếp tục dùng tay đánh L và xé rách váy, quần lót, áo để lộ những bộ phận nhạy cảm trên người của L còn M dùng điện thoại để quay video. Sau đó, M đưa điện thoại của T cho T3 quay video còn M lao vào dùng tay tát L hai cái. Quá trình T, T3 và M đánh L thì có Bùi Hải M chứng kiến và can ngăn nhưng cả ba không dừng lại mà tiếp tục đưa L ra ngoài với mục đích đưa L về nhà nói chuyện thì gặp quản lý của quán karaoke 68 can ngăn nên T, T3 và M dừng lại. T vứt điện thoại Nokia của L vào bồn cây ở quán karaoke 68 rồi cả ba ra về. Trên đường về nhà, T bảo M chuyển toàn bộ video quay được sang điện thoại của T, đồng thời M xóa hết các video trong điện thoại của mình. Đến ngày 07/7/2023, T sử dụng điện thoại đăng nhập tài khoản Facebook “Còi‟s Bon” của mình đăng toàn bộ hình ảnh, video quay lại quá trình đánh đập, lột, xé rách quần áo L tại quan karaoke 68 lên mạng xã hội Facebook sau đó xoá toàn bộ video trong điện thoại của mình.

Ông Nguyễn Văn T (là bố đẻ của chị L) phát hiện trên Facebook đăng tải các hình ảnh, video cảnh đánh đập, xé quần áo của con mình nên đã đến Công an thành phố S trình báo sự việc. L và gia đình có đơn đề nghị khởi tố vụ án hình sự, đề nghị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với T, T3 và M.

Tại Kết luận giám định 3528/KL-KTHS ngày 03/10/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T kết luận: Không phát hiện dấu hiệu cắt ghép, chỉnh sửa nội dung hình ảnh trong 04 tệp video của 01 USB gửi giám định. Kèm theo kết luận một phụ lục gồm 09 ảnh.

Về dân sự: Bị cáo T đã bồi thường khắc phục hậu quả 30.000.000đ, M và T3 mỗi người đã bồi thường cho bị hại là 5.000.000đ. Người bị hại và đại diện không có yêu cầu gì khác. Ngày 16/01/2024 người bị hại và đại diện hợp pháp của người bị hại có đơn đề nghị miễn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với M và T3.

Cáo trạng số 03/CTr-VKS-HS ngày 27/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố S truy tố bị cáo Nguyễn Thị T về tội “Làm nhục người khác” theo quy định tại điểm e khoản 2 Điều 155 BLHS.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng đối với bị cáo, đề nghị áp dụng: Điểm e khoản 2 Điều 155; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm i khoản 1 Điều 52; Điều 65 BLHS. Đề nghị xử phạt Nguyễn Thị T mức hình phạt từ 06 tháng đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách từ 12 tháng đến 18tháng; Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. Đề nghị đình chỉ vụ án đối với M và T3. Bị cáo nhận tội, không có ý kiến tranh luận và xin được hưởng mức án nhẹ nhất. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị hại thống nhất với lời luận tội của đại biện VKS, đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về phần thủ tục tố tụng: Về hành vi, thẩm quyền, trình tự, thủ tục tố tụng của cơ quan, người tiến hành tố tụng trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố trong vụ án này đã thực hiện đúng quy định của pháp luật. Bị cáo, người bị hại, người đại diện không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan, người tiến hành tố tụng.

[2]. Về hành vi phạm tội: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai nhận do nghi ngờ Nguyễn Thùy L có quan hệ tình cảm với chồng mình nên vào khoảng 22h ngày 06/7/2023, Nguyễn Thị T đã rủ Nguyễn Thị M và Nguyễn Thị Thanh T3 đến quán Karaoke 68 thuộc tổ dân phố Hưng Thông, phường Quảng Thọ, thành phố S đánh, chửi bới, lột, xé rách váy, quần áo để lộ những bộ phận nhạy cảm trên cơ thể L. M dùng điện thoại quay video. Đến ngày 07/7/2023, T đã sử dụng tài khoản Facebook “Còi „s Bon” của mình đăng tải các hình ảnh, video quay quá trình đánh đập, lột, xé rách váy, quần áo L lên mạng xã hội Facebook. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa thống nhất với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với báo cáo của người bị hại, lời khai của người làm chứng cùng các tài liệu, chứng cư khác được phản ánh trong hồ sơ.

Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Thị T đã phạm vào tội “làm nhục người khác” theo quy định tại điểm e khoản 2 Điều 155 BLHS như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ, đúng pháp luật.

Đối với hành vi của M và T3 cáo trạng truy tố về tội “Làm nhục người khác” theo khoản 1 Điều 155 BLHS. Ngày 16/01/2024 người bị hại và đại diện hợp pháp của người bị hại có đơn đề nghị miễn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hai bị cáo trên nên HĐXX quyết định đình chỉ vụ án đối với M và T3 theo quy định của pháp luật.

[3]. Về tính chất vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, tuy nhiên tính chất của vụ án là ít nghiêm trọng, đã xâm phạm đến sức khỏe, danh dự nhân phẩm của công dân được pháp luật bảo vệ. Bị cáo đã dùng tài khoản facebook của mình đăng tải các hình ảnh, video lên mạng xã hội đã khiến nhiều người biết đến, lan truyền trên không gian mạng một cách nhanh chóng xúc phạm danh dự nhân phẩm của người bị hại, làm ảnh hưởng xấu đến đời sống cá nhân của bị hại, ảnh hưởng đến danh dự, uy tín, cuộc sống bình thường của gia đình bị hại. Vì vậy cần phải được xử lý nghiêm để răn đe giáo dục phòng ngừa chung.

Bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội đối với người dưới 16 tuổi” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 52 BLHS. Tuy nhiên khi quyết định mức, loại hình phạt cần xem xét: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải, khắc phục hậu quả cho người bị hại, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, người bị hại có đơn xin miễn giảm trách nhiệm hình sự. Do đó bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS. Xét thấy bị cáo là người có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cần áp dụng Điều 65 BLHS cho bị cáo được hưởng án treo và cải tạo giáo dục tại địa phương cũng đủ để giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận bị cáo đã bồi thường số tiền 30.000.000 đồng cho người bị hại. Người bị hại và người đại diện không có yêu cầu, đề nghị gì khác về phần dân sự nên miễn xét.

[5] Về vật chứng: Đối với 01 điện thoại di động iphone XS Max sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS

[6] Án phí: Căn cứ khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội buộc bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm e khoản 2 Điều 155; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

điểm i khoản 1 Điều 52; Điều 65 BLHS. Điểm a khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH14.

Tuyên bố Bị cáo Nguyễn Thị T phạm tội “Làm nhục người khác” Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị T 06 (sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Quảng Minh, thành phố S, tỉnh T giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

“Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể buộc người được hưởng án treo phải chấp hành phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo theo quy định tại khoản 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự”. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật thi hành án hình sự.

Về dân sự: Ghi nhận người bị hại đã nhận bồi thường và không có yêu cầu gì thêm về phần dân sự.

Về vật chứng: Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động iphone XS Max hiện đang được tạm giữ theo biên bản giao nhận vật chứng số 11/BBVC- CCTHA ngày 28/11/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố S.

Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ án phí HSST.

Bị cáo, người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của người bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, người đại diện vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận (hoặc ngày niêm yết) bản án.

Trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

14
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội làm nhục người khác số 08/2024/HS-ST

Số hiệu:08/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sầm Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:29/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về