Bản án về tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người số 11/2022/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ L, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 11/2022/HSST NGÀY 19/01/2022 VỀ TỘI LÀM LÂY LAN DỊCH BỆNH TRUYỀN NHIỄM NGUY HIỂM CHO NGƯỜI

Ngày 19 tháng 01 năm 2022, tại Tòa án nhân dân thành phố L xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 144/2021/TLST-HS ngày 02/11/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 160/2021/QĐXXST-HS ngày 30/11/2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 15/2021/HSST-QĐ ngày 31/12/2021 và Thông báo thay đổi thời gian mở phiên tòa số 01/2022/TB.TA ngày 11/01/2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Ngọc S, sinh năm 1983 tại thành phố L, tỉnh An Giang; Nơi cư trú: Số 21A, khóm T, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang; Nghề nghiệp: Lái xe ô tô, Trình độ học vấn: 5/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Đạo Phật giáo hòa hảo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Ngọc S1(chết) và bà Nguyễn Thị H(chết); Bị cáo có vợ tên Lê Thị P, sinh năm 1982 và có 02 con, lớn sinh năm 2011, nhỏ sinh năm 2017; Tiền sự, tiền án: Không. Bị cáo bị tạm giam từ ngày 24/9/2021 đến nay và có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo: Bà Hồ Hoàng P – Luật sư thuộc Đoàn luật sư tỉnh An Giang. Có mặt

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Nguyễn Thị Ánh T, sinh năm 1980. Địa chỉ: Khóm T, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang. Vắng mặt

2. Bà Trần Thị C, sinh năm 1979. Địa chỉ: Khóm T, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang. Vắng mặt

3. Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1979. Địa chỉ: Khóm T, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang. Vắng mặt

4. Ông Lê Châu P, sinh năm 1995. Địa chỉ: Khóm T, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang. Vắng mặt

5. Em Lưu Trí T, sinh năm 2008. Địa chỉ: Khóm T, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang. Vắng mặt

6. Bà Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1970. Địa chỉ: Khóm T, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang. Vắng mặt

7. Bà Lê Thị Kim L, sinh năm 1980. Địa chỉ: Khóm T, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang. Vắng mặt

8. Bà Nguyễn Thị Kim H, sinh năm 1979. Địa chỉ: Địa chỉ: Khóm T, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang. Vắng mặt

9. Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1950. Địa chỉ: Số 21A, khóm T, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang. (Bà Hđã chết)

Người kế thừa quyền, nghĩa vụ của bà Hải:

Bà Nguyễn Thị Như T, sinh năm 1977. Địa chỉ: Tổ 76, khóm B, phường B, thành phố L, tỉnh An Giang. Vắng mặt

Bà Nguyễn Thị Huỳnh G, sinh năm 1979. Địa chỉ: Tổ 21, ấp P, thị trấn A, huyện C, tỉnh An Giang. Vắng mặt

Ông Nguyễn Ngọc S, sinh năm 1983. Số 21A, khóm T, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang. Có mặt

Nguyên đơn dân sự: Sở Y tế tỉnh An Giang.

Đại diện theo pháp luật: Ông Trần Quang H, chức vụ: Giám đốc.

Đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Minh T, chức vụ: Giám đốc Trung tâm Y tế thành phố L.

Ông Tân ủy quyền cho bà Nguyễn Thị Hồng T, chức vụ: Nhân viên phòng TCKT – Trung tâm Y tế thành phố L. Có mặt

Người làm chứng: Phùng Thanh P, sinh năm 1992. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 07 giờ ngày 05/7/2021, Nguyễn Ngọc S điều khiển xe ô tô tải biển số 65C-028.91 từ xã L, huyện C, tỉnh Long An đến huyện L, tỉnh Vĩnh Long để nhận cá vận chuyển đến chợ B, Thành phố Hồ Chí Minh, trên xe có anh Phùng Thanh P là phụ xe. Khoảng 13 giờ ngày 05/7/2021, S và anh P đến Bệnh viện đa khoa trung tâm Vĩnh Long test nhanh SARS-CoV-2 để lấy kết quả đi qua các trạm kiểm soát dịch. Qua test nhanh, P bị nghi ngờ dương tính với SARS-CoV-2 nên bị giữ lại tại bệnh viện, còn S có kết quả âm tính nên tiếp tục điều khiển xe ô tô đến huyện L nhận cá (lúc này cơ quan y tế chưa biết S và P đi cùng xe). Khoảng 23 giờ ngày 05/7/2021, sau khi truy vết những người tiếp xúc gần với P thì anh Phạm Nhựt T - Bác sĩ của Trung tâm kiểm soát bệnh tật Vĩnh Long điện thoại thông báo cho S biết P dương tính SARS-CoV-2 và yêu cầu S đến cơ sở y tế gần nhất khai báo y tế. Anh T hỏi S cư trú ở đâu thì S khai báo gian dối ở ấp L, xã T, huyện C nên Trung tâm kiểm soát bệnh tật Vĩnh Long chỉ thông báo trường hợp của S cho Trung tâm kiểm soát bệnh tật Long An.

Đến khoảng 08 giờ ngày 06/7/2021, S điều khiển xe ô tô tải 65C-028.91 đến khu vực ngã ba lộ tẻ thuộc quận T, thành phố Cần Thơ và điện thoại cho anh Nguyễn Minh P1 là chủ xe cho biết nơi đậu xe để anh P1 đến lấy xe ô tô tải này. Tiếp đó, S thuê xe mô tô khách của người không rõ họ, tên địa chỉ chở đến Trạm kiểm soát dịch Covid-19 khu vực C, thành phố L. Tại đây, S khai báo y tế về từ huyện V, thành phố Cần Thơ nên được cho qua trạm. Khoảng 13 giờ cùng ngày, S đến Trạm y tế phường M, thành phố L khai báo y tế nhưng chỉ ghi họ tên, địa chỉ, ký tên, bỏ trống phần khai những nơi đã đi qua, không khai báo tiếp xúc gần với anh P dương tính SARS-CoV-2 (theo yêu cầu của Trung tâm kiểm soát bệnh tật Vĩnh Long) rồi về nhà tại số 21A, khóm T, phường M ở chung nhà với bà Nguyễn Thị H (mẹ ruột S). Sau khi kiểm tra tờ khai y tế của S, anh Huỳnh Thanh T - Y sĩ của Trạm y tế phường M điện thoại cho S hỏi thì S cung cấp thông tin đi từ xã L, huyện C, tỉnh Long An về. Do huyện C, tỉnh Long An đang áp dụng Chỉ thị số 15/CT-TTg ngày 27/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ nên Ủy ban nhân dân phường M ra Quyết định số 113 ngày 067/2021 áp dụng biện pháp cách ly y tế tại nhà đối với S, thời gian cách ly từ ngày 06/7/2021 đến hết ngày 19/7/2021 và giao quyết định này cho S vào khoảng 17 giờ cùng ngày. Đến ngày 19/7/2021, S hết thời gian theo dõi cách ly tại nhà nên anh Nguyễn Văn T - Cán bộ của Ủy ban nhân dân phường M đến nhà giao Giấy xác nhận số 158 ngày 19/7/2021 của Ban chỉ đạo phòng chống dịch bệnh Covid-19 phường Mỹ T cho bà H (nhận thay). Đến 08 giờ ngày 22/7/2021, S đến Bệnh viện Mắt - Tai Mũi Họng - Răng Hàm Mặt An Giang khám răng, qua test nhanh 02 lần S đều dương tính SARS-CoV-2 nên Bệnh viện test bằng phương pháp RT-PCR. Kết quả S dương tính SARS-CoV-2 nên được đưa đến Trung tâm y tế huyện C, tỉnh An Giang cách ly, điều trị, đến ngày 04/8/2021 thì ra viện.

Sau khi xác định S dương tính SARS-CoV-2, cơ quan y tế tiến hành truy vết, xét nghiệm bà H, anh Lê Châu P là những người tiếp xúc gần với S đều có kết quả test RT-PCR dương tính với SARS-CoV-2 nên ngày 22/7/2021 nên bà H được đưa đi cách ly, điều trị tại Trung tâm y tế huyện C, tỉnh An Giang, anh P đi cách ly, điều trị tại Khu cách ly tập trung Trường Cao đẳng nghề An Giang. Đến ngày 13/8/2021, anh P ra viện, tiếp tục cách ly tại nhà. Riêng bà H, ngày 28/7/2021 bệnh chuyển biến nặng nên được chuyển đến Bệnh viện đa khoa trung tâm An Giang điều trị, đến ngày 14/8/2021 thì chết vì viêm phổi nặng do SARS-CoV-2 - NMCT cấp thành dưới - Sốc nhiễm trùng ĐTĐ type 2 - Suy tim III - Suy thận cấp/suy thận mãn IV - Rối loạn điện giải.

Truy vết những người tiếp xúc gần với bà H, ngày 22, 23/7/2021 Ban chỉ đạo phòng chống dịch bệnh Covid-19 thành phố L ra quyết định đưa em Lưu Trí T, sinh năm 2008; chị Nguyễn Thị Thu H, sinh năm 1970; chị Lê Thị Kim L, sinh năm 1980; chị Nguyễn Thị Kim H, sinh năm 1979; chị Nguyễn Thị Ánh T, sinh năm 1980; anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1953; chị Trần Thị C, sinh năm 1979 cùng cư trú tại khóm T, phường M, thành phố L đi cách ly tập trung tại Khu cách ly tập trung V, phường T, thành phố L. Đến ngày 30/7/2021, tất cả những người này đều có kết quả dương tính SARS-CoV-2 và điều trị đến ngày 31/8/2021 thì ra viện và tiếp tục cách ly tại nhà.

Ngày 24/9/2021, S bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố L bắt tạm giam để điều tra.

Cáo trạng số: 140/CT-VKS ngày 29/10/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố L truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc S về tội “Làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người” theo điểm b khoản 2 Điều 240 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà sơ thẩm:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố L vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử, Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 240, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc S từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù về tội “Làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người”.

Hình phạt bổ sung: Do hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn nên không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, đề nghị trả lại cho bị cáo S 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo F11 Pro, có gắn sim số 0939.651.205 và 0936.465.671 do không liên quan đến việc phạm tội.

Trách nhiệm dân sự: Áp dụng: Điều 46, Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 584, Điều 585, Điều 586 Bộ luật Dân sự buộc bị cáo S bồi thường chi phí cách ly y tế bệnh nhân có liên quan số tiền 6.480.000 đồng, chi phí khu phong tỏa (quản lý chuyên môn về y tế), số tiền 12.926.076 đồng, tổng cộng 19.406.076 đồng cho Sở Y tế tỉnh An Giang. Trả lại cho bị cáo Nguyễn Ngọc S số tiền 18.593.924 đồng, do nộp khắc phục hậu quả còn dư.

Đối với chi phí phong tỏa tại khu vực nhà của S ở phường M, thành phố L, chi phí này do UBND phường M và UBND thành phố L quản lý, quá trình điều tra đã yêu cầu các cơ quan này cung cấp thống kê chi phí nhưng chưa có kết quả nên không xem xét xử lý, nếu sau này có yêu cầu thì khởi kiện trong vụ án khác.

Bà Nguyễn Thị Như T, Nguyễn Thị Quỳnh G và Nguyễn Ngọc S là người kế thừa quyền, nghĩa vụ của bà Nguyễn Thị H không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại nên không xét đến.

Ông Lê Châu P, em Lưu Trí T, bà Nguyễn Thị Thu H, bà Lê Thị Kim L, bà Nguyễn Thị Kim H, bà Nguyễn Thị Ánh T, bà Trần Thị C, ông Nguyễn Văn T là những người nhiễm bệnh Covid-19 từ ca nhiễm của S, hiện đã khỏi bệnh, không yêu cầu bồi thường thiệt hại nên không đề nghị xử lý.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Ngọc S khai nhận: Bị cáo làm nghề lái xe tải chở hàng từ các tỉnh Miền tây đến thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 05/7/2021, bị cáo và phụ xe Phùng Thanh P đến bệnh viện đa khoa trung tâm Vĩnh Long test nhanh SARS-CoV-2 để lấy kết quả đi qua các trạm kiểm soát dịch thì P có kết quả dương tính nên bệnh viện giữ lại, còn bị cáo có kết quả âm tính nên tiếp tục điều khiển xe đến huyện L, tỉnh Vĩnh Long nhận cá. Tiếp đó, bị cáo nhận được cuộc gọi từ bác sĩ của bệnh viện Vĩnh Long thông báo là P dương tính SARS-CoV-2 và yêu cầu bị cáo đi khai báo y tế gần nhất nhưng bị cáo không thực hiện mà điều khiển xe đi giao hàng, không khai báo y tế đầy đủ, không khai báo việc tiếp xúc gần với anh P dương tính với SARS-CoV-2 làm lây lan dịch bệnh như nội dung Cáo trạng đã truy tố. Đối với phần luận tội của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, khung hình phạt, bị cáo không tranh luận, yêu cầu Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, bị cáo đã ăn năn hối cải về hành vi phạm tội vừa qua.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Lê Châu P, Lưu Trí T, Nguyễn Thị Thu H, Lê Thị Kim L, Nguyễn Thị Kim H, Nguyễn Thị Ánh T, Trần Thị C, Nguyễn Văn T vắng mặt tại phiên tòa nhưng quá trình điều tra, trình bày: Từ ngày 06 đến ngày 19/7/2021, các ông bà có tiếp xúc gần với bà H (mẹ bị cáo S), còn ông P đem bánh mì đến nhà đưa cho S vào ngày 21/7/2021. Sau đó thì biết tin bà H, S dương tính với SARS-CoV-2 nên các ông bà đi khai báo y tế thì được đưa đi cách ly, điều trị, hiện đã khỏi bệnh và không yêu cầu bị cáo Sơn bồi thường thiệt hại về dân sự.

Người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng quá trình điều tra, trình bày Phùng Thanh P trình bày: Ngày 05/7/2021, sau khi P được bác sĩ của Bệnh viện đa khoa trung tâm Vĩnh Long đưa vào phòng cách ly để lấy mẫu xét nghiệm SARS-CoV-2 lần 2 thì P có gọi điện thoại cho S biết việc Phương có khả năng dương tính với SARS-CoV-2 đang chờ kết quả xét nghiệm lại.

Luật sư Hồ Hoàng Phượng trình bày quan điểm bào chữa cho bị cáo: Thống nhất với Cáo trạng truy tố và bản luận tội của đại diện viện kiểm sát đối với bị cáo S là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Tuy nhiên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo là người cao hiếu thảo, thiếu hiểu biết pháp luật, vì sợ bị cách ly y tế nên đã khai báo không đúng sự thật, đã gây ra hậu quả đáng tiếc. Bị cáo là lao động chính trong gia đình, phạm tội lần đầu nên đề nghị xử phạt bị cáo 01 năm tù cũng đủ răn đe cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra; Viện kiểm sát, Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, không kêu oan, không khiếu nại.

[2] Về thủ tục tố tụng Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có đơn yêu cầu vắng mặt, riêng người làm chứng được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa. Đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố tại phiên tòa không ý kiến về việc vắng mặt của những người tham gia tố tụng này và đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vụ án. Xét thấy quá trình điều tra, Cơ quan điều tra – Công an thành phố Long Xuyên đã tiến hành lấy lời khai, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bồi thường về dân sự nên việc vắng mặt nêu trên không ảnh hưởng đến việc xét xử. Do đó, căn cứ Điều 292, Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[3] Về trách nhiệm hình sự Ngày 06/7 đến ngày 22/7/2021, bị cáo có tiếp xúc gần với người dương tính Covid-19 nhưng bị cáo không khai báo đầy đủ và có hành vi khai báo gian dối để được thông trạm kiểm soát dịch bệnh, kết quả bị cáo làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm cho 09 người, trong đó người bà Nguyễn Thị H (mẹ đẻ bị cáo) là những người tiếp xúc gần với bị cáo và có 08 người tiếp xúc gần với bà Hải đều có kết quả dương tính Covid-19 được đưa đi cách ly điều trị. Tuy nhiên, trong thời gian điều trị thì bà Hải chết vì viêm phổi nặng do Covid-19 gây ra. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng cùng các chứng cứ khác được thu thập trong quá trình điều tra vụ án. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Xuyên truy tố bị cáo về tội “Làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b Điều 240 Bộ luật Hình sự 2015 là có căn cứ.

[4] Về tính chất mức độ của hành vi phạm tội SARS-CoV-2 (Covid-19) là bệnh truyền nhiễm, lây lan qua đường hô hấp từ người sang người. Ngày 01/4/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 447/QĐ-TTg về việc công bố dịch Covid-19 xảy ra trên phạm vi toàn quốc, vì nó có khả năng lây truyền rất nhanh, phát tán rộng và tỷ lệ tử vong cao.

Hiện tại, dịch bệnh Covid-19 được dự báo diễn biến phức tạp với các biến thể tự phát, đe dọa nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe con người cũng như nền kinh tế, chính trị, xã hội của một quốc gia nói riêng và cả thế giới nói chung. Tại nước ta, từ Trung ương đến địa phương, bằng nhiều hình thức tuyên truyền cho người dân hiểu rõ về mức độ nguy hiểm của dịch bệnh Covid-19, đồng thời ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật, văn bản chỉ đạo tăng cường các biện pháp phòng, chống dịch bệnh, cùng với sự quyết tâm nỗ lực rất cao của mọi người trong cộng đồng về công tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19, vì vậy công tác phòng, chống, kiểm soát dịch bệnh Covid-19 trên địa bàn An Giang nói riêng, cả nước nói chung đạt nhiều kết quả quan trọng. Thế nhưng bên cạnh đó, vẫn còn đối tượng không chấp hành quy định của pháp luật, không thực hiện nghiêm các biện pháp phòng, chống dịch bệnh Covid-19, đã làm lây lan dịch bệnh Covid-19 cho nhiều người, thậm chí có trường hợp chết người.

Bị cáo là người đã trưởng thành, khỏe mạnh và nhận thức được hành vi của bản thân. Lẽ ra, qua test nhanh Covid-19 tại Bệnh viện đa khoa trung tâm Vĩnh Long, bị cáo biết được ông P là phụ xe đi cùng với bị cáo có kết quả dương tính Covid-19 và được ông P gọi điện thoại thông báo cho bị cáo biết cũng như phía Bệnh viện Vĩnh Long gọi điện yêu cầu bị cáo đi khai báo y tế gần nhất nhưng bị cáo không thực hiện mà tiếp tục đi giao hàng tại Thành phố Hồ Chí Minh là vùng có dịch bệnh Covid-19. Sau đó, bị cáo về thành phố L và tiếp tục khai báo gian dối tại trạm soát kiểm dịch, dẫn đến có 08 người tiếp xúc trực tiếp, gián tiếp với bị cáo bị lây nhiễm Covid-19, hậu quả làm mẹ bị cáo chết trong thời gian điều trị bệnh. Hành vi phạm tội của bị cáo là cố ý, xem thường pháp luật, biết trước hậu quả nhưng vẫn cố ý khai báo y tế gian dối làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người, gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe, tài sản của người khác. Do đó, cần áp dụng hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân biết tôn trọng pháp luật, đồng thời răn đe, phòng ngừa chung.

[5] Về nhân thân và tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự Về nhân thân: Ngày 24/6/2004, bị Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xử phạt 05 năm tù về tội “Hiếp dâm trẻ em”. Bị cáo đã chấp hành xong bản án nhưng cũng thể hiện bị cáo có nhân thân không tốt.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tuy nhiên, bị cáo tình tiết tăng nặng định khung thuộc trường hợp làm chết người được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 240 theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ.

[6] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự Đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, thuộc trường hợp phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo nộp khắc phục hậu quả và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, người bào chữa có căn cứ, phù hợp với quy định pháp luật nên được Hội đồng xét xử xem xét khi áp dụng hình phạt đối với bị cáo.

[7] Về trách nhiệm dân sự Sở Y tế tỉnh An Giang yêu cầu bị cáo bồi thường chi phí cách ly bệnh nhân có liên quan là 6.480.000đ, chi phí khu phong tỏa là 12.926.076đ là có căn cứ nên buộc bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường.

Đối với chi phí điều trị cho bệnh nhân bị nhiễm SARS-CoV2 là 14.394.984đ, đây là chi phí do Nhà nước chi trả cho người bị bệnh truyền nhiễm theo quy định tại khoản 2 Điều 46 Luật phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007 nên không buộc bị cáo phải hoàn trả. Tuy nhiên, tại phiên tòa, người đại diện theo ủy quyền của Sở Y tế tỉnh An Giang cũng thống nhất không yêu cầu bị cáo phải bồi thường chi phí này là phù hợp.

Đối với chi phí phong tỏa tại phường M, thành phố L (khu vực nhà của S). Quá trình điều tra, Công an thành phố L yêu cầu Ủy ban nhân dân phường M cung cấp bảng kê chi phí phong tỏa nhưng hiện tại vẫn chưa nhận được cũng như không có ý kiến về việc này. Do đó, Hội đồng xét xử không có căn cứ để xem xét, trường hợp các bên có tranh chấp và có yêu cầu thì sẽ giải quyết trong vụ án khác.

[8] Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra Công an thành phố L có chuyển giao cho Chi cục Thi hành án dân sự thành phố L vật chứng gồm: 01 điện thoại nhãn hiệu Oppo F11 Pro, số imei 1: 863980045782272, số imei 2: 863980045782264, màu đen, đã qua sử dụng kèm sim số 0939651205, 0936465671. Đây là tài sản cá nhân của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

[9] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật. Đối với án phí dân sự sơ thẩm, bị cáo đã nộp khắc phục hậu quả trước khi mở phiên tòa nên bị cáo không phải nộp án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

Điều 136, Điều 106, Điều 292, Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015;

Điểm b khoản 2 Điều 240, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 584, Điều 585 Bộ luật Dân sự năm 2015;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và án phí Tòa án;

Xử vắng mặt người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Tuyên xử:

[1] Về hình phạt Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Ngọc S 01(một) năm 06(sáu) tháng tù về tội “Làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người”.

Thời hạn tù tính từ ngày 24/9/2021.

[2] Về trách nhiệm dân sự Bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường cho Sở Y tế tỉnh An Giang 19.406.076đ (làm tròn 19.406.000đ). Số tiền này, Sở Y tế tỉnh An Giang được nhận theo biên lai thu số 0001023 ngày 14/12/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Long Xuyên do bị cáo nộp khắc phục hậu quả.

Hoàn trả lại cho bị cáo 18.594.000đ theo biên lai thu số 0001023 ngày 14/12/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Long Xuyên.

Đối với chi phí phong tỏa tại phường M, thành phố L (khu vực nhà của S). Quá trình điều tra, Công an thành phố L yêu cầu Ủy ban nhân dân phường M cung cấp bảng kê chi phí phong tỏa nhưng hiện tại vẫn chưa nhận được cũng như không có ý kiến về việc này. Do đó, Hội đồng xét xử không có căn cứ để xem xét, trường hợp các bên có tranh chấp và có yêu cầu thì sẽ giải quyết trong vụ án khác.

[3] Về xử lý vật chứng Trả lại cho bị cáo: 01 điện thoại nhãn hiệu Oppo F11 Pro, số imei 1: 863980045782272, số imei 2: 863980045782264, màu đen, đã qua sử dụng kèm sim số 0939651205, 0936465671.

(Xử lý vật chứng theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 15/11/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố L và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố L) [4] Về án phí hình sự sơ thẩm Bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm. [5] Về quyền kháng cáo Bị cáo, Sở Y tế tỉnh An Giang được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan; Người kế thừa quyền, nghĩa vụ của bà Nguyễn T được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

608
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người số 11/2022/HSST

Số hiệu:11/2022/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Xuyên - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về