Bản án về tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người số 03/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC NINH, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 03/2021/HS-ST NGÀY 27/10/2021 VỀ TỘI LÀM LÂY LAN DỊCH BỆNH TRUYỀN NHIỄM NGUY HIỂM CHO NGƯỜI

Trong ngày 27 tháng 10 năm 2021 tại trụ sở, Tòa án nhân dân thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh mở phiên xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 07/2021/HSST ngày 15 tháng 10 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 10/2021/QĐXX- ST, ngày 16/ 10/ 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị P - Sinh năm 1987; Giới tính: Nữ.

- HKTT: Thôn T, xã L, huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc.

- Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 09/12; Dân tộc: Kinh; Tôn Giáo Không; Quốc tịch: Việt Nam.

- Bố: Nguyễn Văn X- Sinh năm 1962; Mẹ: Nguyễn Thị M - sinh năm 1963.

- Gia đình bị cáo có 3 chị em, bị cáo là lớn.

- Chồng: Nguyễn Cẩm N, sinh năm 1987; Con: Có 01 con sinh năm 2005.

- Tiền án, tiền sự: Không.

- Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 03/7/2021, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh (có mặt).

Người bị hại: Anh Trần Văn L, sinh năm 1971, trú tại: Số 313, N, khu H, phường V, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh ( vắng mặt).

- Anh Vũ Văn T, sinh năm 1977, trú tại: Đường V 21, phường V, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các chứng cứ tài liệu được thu thập trong giai đoạn điều tra và diễn biến tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 17/5/2021, tình hình dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp do vius Sars- CoV-2 ( dịch bệnh covid-19) tên địa bàn tỉnh Bắc Ninh nói chung và thành phố Bắc Ninh nói riêng đang gia tăng và diễn bến ngày càng phức tạp. Thực hiện Chỉ thị số: 16/CT- TTg ngày 31/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ, UBND tỉnh Bắc Ninh có văn bản số 322/UBND- KGVX về việc thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị số: 16/CT- TTg từ 06h00’ ngày 18/5/2021 trên địa bàn thành phố Bắc Ninh. Ngày 18/5/2021 Chủ tịch UBND thành phố Bắc Ninh ban hành văn bản số: 831/QĐ- UBND về việc thành lập các chốt chặn kiểm dịch trên địa bàn thành phố Bắc Ninh. Ngày 24/5/2021, UBND tỉnh Bắc Ninh ban hành Văn bản số: 338/UBND-KGVX và UBND thành phố Bắc Ninh ban hành văn bản số: 1291/UBND-VP về việc thực hiện các biện pháp cách ly xã hội Theo phương châm “Gia đình cách ly với gia đình, khu phố cách ly với khi phố, phường cách ly với phường và người dân không được ra đường sau 20 giờ...”.

Trước ngày 11/6/2021, trên địa bàn phường Đại Phúc, thành phố Bắc Ninh có một số ca nhiễm Sars-CoV-2 ngoài cộng đồng và có quy định cách ly y tế đối với một số cụm dân thuộc cư khu 4, khu 10, trên địa bàn toàn phường Đại Phúc áp dụng Chỉ thị số: 16/ CT- TTg phòng chống dịch. Ngoài ra, Đài phát thanh của phường Đại Phúc hàng ngày cũng phát thanh tuyên truyền vào các khung giờ như: Buổi sáng từ 06 giờ đến 6 giờ 20 phút; Buổi trưa từ 11 giờ 15 phút đến 11 giờ 40 phút và buổi chiều từ 16 giờ 30 phút đến 17 giờ về công tác phòng chống dịch, yêu cầu người dân ai ở nhà người đó, khu cách ly với khu, phường cách ly với phường, đồng thời yêu cầu những người có biểu hiện sốt, ho, đau họng, khó thở, người mệt mỏi... cần liên hệ ngay với trạm y tế để được hướng dẫn và làm xét nghiệm Sars- CoV-2.

Nguyễn Thị P, sinh năm 1987, HKTT: Thôn T, xã L, huyện Sông Công, tỉnh Vĩnh Phúc và Nguyễn Văn Q, sinh năm 1990, HKTT: Khu 7, phường Đại Phúc, thành phố Bắc Ninh có quan hệ tình cảm và chung sống với nhau như vợ chồng. Khoảng 19 giờ ngày 28/5/2021, P đi xe ôm của một người không quen biết từ Ngõ 84, phường Ngọc Khánh, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội về thành phố Bắc Ninh, về đến thành phố Bắc Ninh thì Q ra đón và đưa P về nhà Q ở khu 7, phường Đại Phúc, TP.Bắc Ninh. Tại nhà Q, P và Q ở cùng nhau trên tầng 2 khoảng 1 tuần, trong thời gian hai người ở cùng, 2 người có cùng nhau ra ngoài chơi tầm 20 phút thì đi về, khi đi qua chốt kiểm dịch có đeo khẩu trang. Sau đó, Q ra ngoài một mình liên tục, không rõ là đi đâu. Khoảng 20 giờ ngày 9/6/2021, Q mâu thuẫn, cãi nhau với bố mẹ và P bị gia đình Q đuổi ra khỏi nhà, đến khoảng 23 giờ cùng ngày, Q và P đến Nhà nghỉ Nắng Hồng có địa chỉ tại: Khu 2, phường Đại Phúc do bà Nguyễn Thị U, sinh năm 1958 làm chủ thuê phòng 404. 7 giờ 30 phút ngày 10/6/2021, P ngủ dậy không thấy Q trong phòng nên P đã mượn điện thoại của bà U gọi cho anh Trần Văn L, anh L có rủ P đến nhà L, P lên phòng thu dọn đồ và thanh toán 200.000 đồng tiền thuê phòng rồi đi bộ sang nhà L ở số 313, đường N, khu H, phường V, TP.Bắc Ninh. Đến 16 giờ cùng ngày, P lại đi bộ từ nhà anh L ra khu vực vòng xuyến khu H thì gặp anh T làm nghề xe ôm, P bảo anh T đưa mình đến phường Đại Phúc, khi đi đến ngã 6 phường Đại Phúc thì P lại bảo anh T trở P quay lại nhà anh L, đi gần đến cột đồng hồ thuộc phưòng V thì P và anh T dừng lại nói chuyện khoảng 5 phút, P có xin số điện thoại của anh T. Lúc này P đã có biểu hiện ho, sốt. Sau khi về nhà anh L, P trả anh thế 30.000 đồng tiền xe ôm và lấy xe đi ra cổng chợ H, phường V mua 1 mớ rau muống (không rõ mua của ai) về để nấu cơm và ăn ngủ tại nhà anh L.

Khoảng 16 giờ ngày 11/6/2021, P mượn điện thoại của anh L gọi cho anh T vào số điện thoại 0984.388.xxx nói với anh T ra chốt gần vòng xuyến H đón mình. Như đã hẹn, anh T đón và chở P ra cửa hàng điện thoại Q OPPO địa chỉ tại số 97 Phố Vũ, phường Đại Phúc, thành phố Bắc Ninh do anh Phạm Văn Q, sinh năm 1998 làm chủ mua 01 chiếc điện thoại Xiaomi màu vàng với giá 800.000 đồng rồi sau đó anh T lại chở P quay lại nhà anh L. P trả anh T 20.000 đồng tiền xe ôm. Đến 23 giờ cùng ngày P và anh L được bà U chủ Nhà nghỉ Nắng Hồng báo tin Nguyễn Văn Q bị Cơ quan Công an bắt về hành vi “Gây rối trật tự công cộng” và mắc bệnh Covid- 19. Sau đó, anh L và P nói chuyện khoảng 30 phút, không đeo khẩu trang. Anh L khuyên P khi khai báo y tế không được khai ăn ngủ tại nhà anh mà chỉ khai đến xin việc làm, khi tiếp xúc giữ khoảng cách và có đeo khẩu trang. Đến 2 giờ sáng ngày 12/06/2021, P bị anh L đuổi ra khỏi nhà, P đi bộ ra vườn hoa khu Khả Lễ, phường V ngồi đến 7 giờ thì ra Trạm y tế phường Đại Phúc khai báo y tế. P khai có tiếp xúc với F0 Nguyễn Văn Q và có biểu hiện ho, sốt, P được xác định là F1của Q và thuộc trường hợp nghi ngờ nhiễm Covid-19. Quá trình khai báo y tế, P khai báo gian dối rằng chỉ đi xin việc có giữ khoảng cách 2m và có đeo khẩu trang tại nhà anh L. P được đưa đi cách ly tại Bệnh viện sức khỏe tâm thần Bắc Ninh.

Đến ngày 14/6/2021, P có kết quả dương tính với Sars-CoV-2 và được đưa đi điều trị tại Bệnh viện dã chiến số 1 thuộc huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh đến ngày 03/7/2021 thì ra viện. Ngày 14/6/2021 anh Trần Văn L có đến Trạm y tế phường V khai báo y tế tiếp xúc với P, đươc xác định là F1 của P và được đưa đi cách ly, sau đó ngày 16/6/2021, anh L dương tính với Sars-CoV-2 và được đưa đi điều trị tại Bệnh viện dã chiến truyền nhiễm số 1, đến ngày 1/7/2021 thì ra viện. Ngày 16/6/2021, anh Vũ Văn T có biểu hiện ho, sốt nên đã đến Trung tâm y tế thành phố Bắc Ninh khai báo và đươc xác định là F1 của P và được đưa đi cách ly. Ngày 19/6/2021, anh T có kết quả dương tính với Sars-CoV-2 và được đưa đi điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Ninh đến 4/7/2021 thì ra viện. Anh T đã tự nguyện giao nộp 50.000 đồng là tiền công chở xe ôm do P trả.

Tại Biên bản làm việc với UBND phường V xác định tại thời điểm tháng 6/2021 trên địa bàn phường lập 65 chốt cứng và 6 chốt mềm để thực hiện việc giãn cách xã hội theo Chỉ thị số 16. Trước ngày 11/6/2021 tại Khu Hòa Dình, phường V nơi anh Vũ Văn T và anh Trần Văn L, sinh sống không có ca nhiễm Covid- 19, Văn bản số: 161/QĐ- BCSS ngày 16/6/2021 của Ban chỉ đạo phòng chống dịch Covid thành phố Bắc Ninh Quyết định về việc thiết lập vùng cách ly y tế đối với trục đường N (đoạn từ ngõ 279 đến ngõ 357 và văn bản số: 187/QĐ- BCĐ ngày 19/6/2021 của Ban chỉ đạo phòng chống dịch Covid-19 thành phố Bắc Ninh về việc thiết lập vùng cách ly y tế đối với khu vực giãn dẫn 1 khu H.

Sau khi tiếp xúc với P anh L, anh T đươc đưa vào cơ sở cách lý tập trung mới có kết quả dương tình với Sars- CoV-2, tiến hành xét nghiệm đối với những người bị cách ly ở cùng với anh L và anh T đều có kết quả âm tình với Sars- Co V2.

Sau thời gian cách lý, điều trị anh L và anh T khỏi bệnh, xuất viện và không yêu cầu hay đề nghị P phải bồi thường trách nhiệm dân sự.

Với nội dung trên, Bản cáo trạng số 152/CT- VKSTPBN ngày 15/102021 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh đã truy tố Nguyễn Thị P tội “Làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người” theo điểm c khoản 1 Điều 240 của BLHS.

Tại phiên tòa Nguyễn Thị P khai nhận: Bị cáo có về Bắc Ninh và cư trú trên địa bàn phường Đại phúc, thành phố Bắc Ninh từ ngày 28/5/2021, đúng vào thời điểm trên địa bàn phường Đại Phúc nói riêng, thành phố Bắc Ninh nói chung tình hình bệnh truyền nhiễm viêm đường hô hấp cấp do Virurs Sars- CoV-2 gây ra đang diễn biến phức tạp, có nhiều ca lây nhiễm trong cộng đồng. Để nâng cao hiệu quả cho công tác phòng. chống dịch bệnh, UBND tỉnh Bắc Ninh, UBND thành phố Bắc Ninh đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo công tác phòng chống dịch trong đó có Văn bản số: 831/QĐ-UBND, ngày 18/5/2021 Chủ tịch UBND thành phố Bắc Ninh về việc thành lập các chốt chặn kiểm dịch trên địa bàn thành phố Bắc Ninh; Văn bản số: 1291/UBND-VP, ngày 24/5/2021 về việc thực hiện các biện pháp cách ly xã hội theo phương châm “Gia đình cách ly với gia đình, khu phố cách ly với khi phố, phường cách ly với phường và người dân không được ra đường sau 20 giờ...”. Song bị cáo đã không chấp hành và thực hiện đúng quy định về cách ly, tự ý ra khỏi địa bàn bị cách ly khi không có lý do chính đáng, tiếp xúc với nhiều người ngoài địa bàn bị cách lý theo Chỉ thị số 16/CT- TTg của Thủ tướng chính phủ trong khi bản thân đã có biểu hiện lâm sàng do nhiệm bệnh Virus Sars CoV-2, hậu quả làm anh Trần Văn L, anh Vũ Văn T bị nhiệm bệnh viêm đường hô hấp cấp do Virurs Sars CoV2 gây ra và UBND thành phố Bắc Ninh phải có văn bản chỉ đạo UBND phường V triển khai các biện pháp cách ly y tế với 01 số khu vực dân cư trên địa bàn thuộc khu H, phường V. Bị cáo thừa nhận hành vi của bản thân là có tội, Viện kiểm sát truy tố bị cáo tội “Làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người” là đúng, không oan, Tại phiên tòa người bị hại là anh Trần Văn L, anh Vũ Văn T đã được tòa án triệu tập tham gia phiên tòa, song 2 anh đều vắng mặt. Xét sự vắng mặt của người bị hại là anh L và anh T không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.

Cũng tại phiên tòa sau khi đánh giá tính chất, tác hại của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố Nguyễn Thị P phạm tội “Làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 240, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của BLHS, xử phạt bị cáo từ 18. đến 22 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 03/7/2021.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại là anh Trần Văn L, anh Vũ Văn T không yêu cầu bị cáo bồi thường trách nhiệm dân sự nên không giải quyết.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của BLHS, Điều 106 của BLTTHS: Trả lại cho anh Vũ Văn T 50.000đ.

Trong phần tranh luận bị cáo thừa nhận tội lỗi và không có ý kiến tranh luận gì với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát.

Khi được nói lời sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện ý kiến của kiểm sát viên, lời khai của bị cáo và các chứng cứ tài liệu đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

1. Tố tụng: Việc khởi tố, điều tra, truy tố, áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với bị can được các cơ quan tiến hành tố tụng tuân thủ đúng quy định của BLTTHS, hoạt động lấy lời khai, hỏi cung bị can, lấy lời khai, người bị hại, người làm chứng và các hoạt động thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm và người phạm tội được Điều tra viên, Kiểm sát viên thực hiện đúng quy định của pháp luật, không có việc mớm cung, ép cung hay dùng nhục hình.

2. Tội danh: Lời khai của Nguyễn Thị P tại phiên tòa thống nhất với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án như: Các văn bản, quyết định của UBND các cấp về công tác phòng ,chống dịch và thực hiện biện các biện pháp cách ly xã hội, cách ly y tế trên địa bàn phường Đại Phúc, địa bàn toàn thành phố Bắc Ninh theo tinh thần chỉ đạo của Chỉ thị số: 16/CT- TTg ngày 31/3/2020 của Thủ tướng chính phủ, kết quả xét nghiệm CoV-2 đối với bị cáo và những người đã tiếp xúc với bị cáo là anh Trần Văn L, anh Vũ Văn T....đủ căn cứ xác định: Nguyễn Thị P là người đang cư trú trên địa bạn phường Đại Phúc, thành phố Bắc Ninh, đây là địa bàn nóng có nhiều ca bệnh truyền nhiễm viêm đường hô hấp cấp trong cộng đồng do Virurs CoV-2 gây ra. Để đẩy lùi đại dịch, không để dịch bệnh lây lan, ngày 17/5/2021 UBND tỉnh Bắc Ninh đã có văn bản số: 322/UBND- KGVX quy định thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị của Thủ tướng chính phủ, vào các ngày 17/5/2021 và 24/5/2021 UBND thành phố Bắc Ninh có văn bản số:

1220/UBND- TP và số: 1291/UBND- VP về việc thực hiện các biện pháp cách ly xã hội theo Chỉ thị số 16/CT- TTg với phương chấm “Gia đình cách ly với gia đình, khu phố cách ly với khu phố, phường cách ly với phường, huyện cách ly với huyện, tỉnh cách ly với tỉnh; Phân xưởng nhà máy sản xuất phải đảm bảo khoảng cách an toàn, đeo khẩu trang, thực hiện khử trùng diệt khuẩn theo quy định. Yêu cầu mọi người dân ở nhà, chỉ ra ngoài trong trường hợp thực sự cần thiết như: Mua lương thực, thực phẩm, thuốc men, làm việc....Thực hiện nghiêm việc giữ khoảng cách tối thiểu 2m khi giao tiếp...”. Song trong các ngày 10 và 11/6/2021 bị cáo đã không chấp hành và thực hiện quy định về cách ly xã hội, tự ý ra khỏi địa bàn bị cách ly khi không có lý do chính đáng, tiếp xúc với nhiều người ngoài địa bàn bị cách ly theo Chỉ thị số: 16/CT- TTg của Thủ tường chính phủ trong khi bản thân đã có biểu hiện lâm sàng của người bị nhiễm bệnh truyền nhiễm do Virus Sars CoV-2 gây ra, hậu quả làm anh Trần Văn L, anh Vũ Văn T bị nhiệm bệnh viêm đường hô hấp cấp do Virurs Sars CoV-2, buộc UBND thành phố Bắc Ninh phải có văn bản chỉ đạo UBND phường V, thành phố Bắc Ninh nơi bị cáo đã đến và thực hiện hoạt động tiếp xúc phải kịp thời triển khai các biện pháp cách phòng, chống dịch, trong đó có biện pháp cách ly y tế đối với 01 số khu vực dân cư. Căn cứ tính chất hành vi, hậu quả bị cáo đã gây ra cho người bị hại, cho xã hội, căn cứ tiết b, điểm 1.1 mục 1 Công văn số: 45/TANDTC-PC ngày 30/3/2020 của Tòa án nhân dân tối cao về việc “Xét xử tội phạm liên quan đến phòng, chống dịch bệnh Covid-19” thấy Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Bắc Ninh truy tố bị cáo tội “Làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người” theo điểm c khoản 1 Điều 240 của BLHS là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

Xét tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm sức khỏe của anh L và anh T, xâm phạm đến đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác phòng, chống dịch bệnh, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, gây tâm lý hoang và sự bất bình trong quần chúng nhân dân. Đặc biệt hiện nay đại dịch viêm đường hô hấp cấp do Virurs Sars CoV-2 gây ra đang ngày gia tăng có diễn biến phức tạp, khó lường, đây là dịch bệnh truyền nhiễm hết sức nguy hiểm, có mức độ lây lan nhanh và rộng, khả năng tử vong cao, chi phí phòng, chống và điều trị bệnh rất lớn. Nhận thức được tính nguy hiểm của đại dịch, Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị đã đề ra nhiều giải pháp, tổ chức, chỉ đạo thực hiện quyết liệt nhằm khống chế và từng bước đẩy lùi bệnh dịch trong đó có biện pháp cách ly; Yêu cầu người dân tuân thủ 5K, người có biểu hiện ho, sốt... tránh tiếp xúc với người khác và phải kịp thời đến cơ sở y tế khai báo và làm xét nghiệm theo quy định. Song bị cáo đã không chấp hành các quy định về cách ly phòng, chống dịch; Khi có các biểu hiện lâm sàng của người bị nhiễm bệnh truyền nhiễm vẫn cố ý tiếp xúc với người khác; Khi khai báo y tế khai báo chưa trung thực, chưa đầy đủ, hậu quả làm người trực tiếp tiếp xúc là anh L, anh T bị lây nhiệm bệnh tật. Với bị cáo thấy cần phải có một mức án nghiêm cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mới đảm bảo giáo dục riêng, răn đe và phòng ngừa chung.

3. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không - Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; Quá trình điều tra và tại phiên tòa thái độ khai báo của bị cáo là thành khẩn và ăn năn hối cải với hành vi phạm tội. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS, nên giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

4. Về trách nhiệm dân sự: Quá trình tố tụng người bị hại là anh Trần Văn L và anh Vũ Văn T không yêu cầu bị cáo phải bồi thường trách nhiệm dân sự, xét việc không yêu cầu bồi thường của người bị hại là tự nguyện nên không đặt ra giải quyết.

5. Về xử lý vật chứng: Cơ quan điều tra đã thu của anh Vũ Văn T 50.000đ, quá trình điều tra chứng minh đây là tiền công và là thu nhập hợp pháp của anh T nên cần trả lại cho anh T.

6. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

7. Liên quan trong vụ án này còn có:

- Đối với Nguyễn Văn Q tại Bản án số: 191/HSST ngày 16/9/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Bắc Ninh đã xét xử Q về tội “Làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người”.

- Đối với hành vi của bà Nguyễn Thị U chủ Nhà nghỉ Nắng Hồng địa chỉ tại Khu 2, Phường Đại Phúc, thành phố Bắc Ninh và anh Phạm Văn Q chủ cửa hàng bán điện thoại di động tại số 97 phố Vũ, phường Đại Phúc, thành phố Bắc Ninh đã có hành vi không tạm đình chỉ hoạt động kinh doanh, dịch vụ tại nơi công cộng để phòng chống dịch Covid- 19, Cơ quan công án đã xử lý và kiến nghị người có thẩm quyền xử phạt hành chính là phù hợp.

- Đối với hành vi của anh Nguyễn Văn T không tuân quy định về giãn cách xã hội, ra đường khi không cần thiết, Cơ quan công an đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính với anh T là phù hợp.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị P phạm tội “Làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 240, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106, 299, 326, 329, 331, 332, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí tòa án.

- Xử phạt: Nguyễn Thị P 20 (hai mươi) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 03/7/2021. Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

- Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết

- Về xử lý vật chứng: Trả lại cho anh Vũ Văn T 50.000đ - Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST.

- Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Người bị hại là anh Trần Văn L, anh Vũ Văn T vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được kết quả bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

24
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội làm lây lan dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm cho người số 03/2021/HS-ST

Số hiệu:03/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Ninh - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về