Bản án về tội làm giả và sử dụng tài liệu của cơ quan, tổ chức số 28/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BỐ TRẠCH, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 28/2022/HS-ST NGÀY 13/05/2022 VỀ TỘI LÀM GIẢ VÀ SỬ DỤNG TÀI LIỆU CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC

Ngày 13 tháng 5 năm 2022, tại 02 điểm cầu – Điểm cầu trung tâm: trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bố Trạch; Điểm cầu thành phần: Trại tạm giam Công an tỉnh Quảng Bình, Tòa án nhân dân huyện Bố Trạch mở phiên toà trực tuyến xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 10/2022/HSST ngày 16 tháng 02 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2022/QĐXXST-HS ngày15 tháng 03 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Thị Q; tên gọi khác: Không; giới tính: Nữ; sinh ngày 16/10/1982 tại huyện B, tỉnh Quảng Bình; nơi đăng ký NKTT: Tổ dân phố Ph, thị trấn P, huyện B, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: lao động tự do trình độ học vấn: 06/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: kinh; tôn giáo: công giáo; đoàn thể: không; con ông: Nguyễn Văn T (đã chết) và bà Nguyễn Thị B; chồng: Nguyễn Văn L, sinh năm 1976; con có 03 người, đứa lớn sinh năm 2002, đứa nhỏ sinh năm 2013; tiền sự: không; tiền án: có 01 tiền án về tội “Vận chuyển, mua bán trái phép vật liệu nổ” theo Bản án số 08/2020/HSST ngày 21/4/2020 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Bình;

Bị cáo hiện đang chấp hành án tại Trại giam Bình Điền, Cục C10, Bộ Công an từ ngày 13/7/2021 cho đến nay. Theo lệnh trích xuất Bị cáo có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 21/4/2020, Nguyễn Thị Q bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình tuyên phạt 08 năm tù về tội “Vận chuyển, mua bán trái phép vật liệu nổ” và được TAND tỉnh Quảng Bình ra Quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù với thời hạn là 01 năm kể từ ngày 04/6/2020 đến ngày 04/6/2021. Đến đầu tháng 05/2021, biết thời hạn hoãn chấp hành hình phạt tù sắp hết và bản thân không thuộc trường hợp được hoãn chấp hành hình phạt tù theo quy định của pháp luật nên Q tìm cách trì hoãn việc chấp hành hình phạt tù.

Do có mối quan hệ họ hàng, Q biết chị Nguyễn Thị V, sinh năm 1987, trú tại TDP Ph, thị trấn P, huyện B, tỉnh Quảng Bình (chồng là anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1983) mang thai trùng thời điểm với mình, sinh được cháu Nguyễn Thủy T. Vì vậy, Q đã nảy sinh ý định làm giả giấy khai sinh cháu Nguyễn Thủy T là con đẻ của mình để lấy lý do xin hoãn chấp hành hình phạt tù lần thứ 2 theo trường hợp đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Đầu tháng 5/2021, Q hỏi mượn chị V bản gốc giấy khai sinh mang tên Nguyễn Thủy T, sinh ngày 25/9/2020. Sau đó Q cắt chữ “Q” dán đè lên trên chữ “V” tại mục Họ, chữ đệm, tên người mẹ, cắt chữ “L” dán đè lên trên các chữ “T” tại mục Họ, chữ đệm, tên người cha và tại mục Họ, chữ đệm, người đi khai sinh; cắt dòng chữ số “16/10/1982” dán đè lên trên dòng chữ số “04/02/1987” ở mục năm sinh dưới mục Họ, chữ đệm, tên người mẹ trên bản gốc giấy khai sinh rồi sao chụp (photocopy) ra 01 bản. Sáng ngày 12/5/2021, Q đem giấy khai sinh bản photocopy đã được cắt ghép, chỉnh sửa và 01 giấy khai sinh bản gốc lên UBND thị trấn Phong Nha gặp cán bộ tư pháp để chứng thực bản sao này đúng với bản chính. Ông Nguyễn Trung Q - cán bộ tư pháp hộ tịch tiếp nhận hồ sơ yêu cầu chứng thực, đóng dấu y sao và trình cho ông Phan Thanh L – Phó chủ tịch UBND thị trấn Phong Nha ký chứng thực. Sau khi nhận được “giấy khai sinh” bản sao đã được chứng thực, Q đến Bưu điện tại thị trấn Phong Nha gửi đến Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình kèm theo đơn xin hoãn chấp hành hình phạt tù để làm thủ tục hoãn thi hành án lần 2. Ngày 28/5/2021, Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình đã ban hành Quyết định hoãn thi hành án phạt tù số 09/2021/QĐ-CA quyết định cho Nguyễn Thị Q được hoãn chấp hành hình phạt 08 (tám) năm tù về tội “Vận chuyển, mua bán trái phép vật liệu nổ” tại Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2020/HSST ngày 21/4/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình.

Vật chứng thu giữ: Cơ quan CSĐT Công an huyện Bố Trạch đã thu giữ 01 Giấy khai sinh bản sao (chứng thực bản sao đúng với bản chính) mang tên Nguyễn Thủy T; sinh ngày 25/9/2020; số định danh cá nhân: 0440320005977; họ tên mẹ Nguyễn Thị Q, họ tên cha Nguyễn Văn L; do Phó chủ tịch UBND thị trấn Phong Nha ký chứng thực và đóng dấu xác nhận của UBND thị trấn Phong Nha ngày 12/5/2021; số theo dõi chứng thực 984, Quyển số 01-SCT/BS. 01 Giấy khai sinh bản gốc số 250/2020 mang tên Nguyễn Thủy T, sinh ngày 25/9/2020, họ tên mẹ Nguyễn Thị V, họ tên cha Nguyễn Văn T. Quá trình điều tra, Cơ quan CSĐT Công an huyện Bố Trạch đã trả lại Giấy khai sinh bản gốc cho chị Nguyễn Thị V.

Kết luận giám định số 1035/NĐ-PC09 ngày 02 tháng 8 năm 2021 của Phòng PC09 Công an tỉnh Quảng Bình kết luận:

“Giấy khai sinh” bản sao y là tài liệu được sao chụp, cắt ghép, chỉnh sửa từ “giấy khai sinh bản gốc”.

Các chữ in có nội dung: “Q” ở mục “Họ, chữ đệm, tên người mẹ”, “10/10/1982” ở mục “Năm sinh” (dưới mục “Họ, chữ đệm, tên người mẹ”), “L” ở mục “Họ, chữ đệm, tên người cha” và mục “Họ, chữ đệm, tên người đi khai sinh” trên “Giấy khai sinh bản sao y” là các chữ cắt ghép, chỉnh sửa.

Hình dấu tròn màu đỏ có nội dung “U.B.N.D THỊ TRẤN PHONG NHA H. BỐ TRẠCH T. QUẢNG BÌNH” trên “giấy khai sinh” bản sao y so với mẫu hình dấu có cùng nội dung được thu thập là do cùng một con dấu đóng ra.

Hình dấu màu đỏ có nội dung “Chứng thực bản sao đúng với bản chính, Ngày: 06-07-2021, Số: ..., Quyển số: ... – SCT/BS, CHỦ TỊCH” so với mẫu hình dấu có cùng nội dung được thu thập là do cùng một con dấu đóng ra.

Chữ ký đứng tên Phan Thanh L dưới mục “P.CHỦ TỊCH” trên “giấy khai sinh” bản sao y so với mẫu chữ ký thu thập là do cùng một người ký ra.

Tại Cáo trạng số 11/CT-VKSBT ngày 16/02/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bố Trạch truy tố bị cáo Nguyễn Thị Q về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức; Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại khoản 1 Điều 341 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo theo như nội dung Bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 341; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo từ 12 đến 15 tháng tù, tổng hợp với hình phạt 08 năm tù theo Bản án số 08/2020/HSST ngày 21/4/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 2 bản án, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án ngày 13/7/2021, được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam (từ ngày 10/8/2019 đến ngày 18/11/2019) theo Bản án số 08/2020/HS-ST.

Về hình phạt bổ sung: xét bị cáo đang chấp hành hình phạt tù, không tạo được thu nhập nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo;

Về xử lý vật chứng: Tịch thu lưu trữ theo hồ sơ vụ án 01 Giấy khai sinh bản sao mang tên Nguyễn Thủy T, sinh ngày 25/9/2020, họ tên mẹ Nguyễn Thị Q, họ tên cha Nguyễn Văn L để làm căn cứ giải quyết vụ án.

Về án phí hình sự sơ thẩm: bị cáo phải nộp theo quy định của pháp luật. Tại phiên tòa, Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, nhất trí với quan điểm luận tội của Kiểm sát viên. Lời nói sau cùng, Bị cáo rất hối hận về hành vi phạm tội của mình, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để sớm được trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tố tụng: Tại phiên tòa vắng mặt Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Trung Q. Ngày 12/5/2022, anh Q có đơn xin xét xử vắng mặt. Xét việc vắng mặt của người liên quan không ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan của vụ án, không gây trở ngại cho việc xét xử; không ai có ý kiến về sự vắng mặt của họ nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 292 của Bộ luật tố tụng hình sự vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[3] Về tội danh: Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại và chứng đã thu giữ, cũng như các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập hợp pháp có tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Với mục đích trì hoãn việc chấp hành án phạt tù theo Bản án của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình, Nguyễn Thị Q đã mượn chị Nguyễn Thị V 01 Giấy khai sinh gốc mang tên Nguyễn Thủy T (là con đẻ của chị Nguyễn Thị V và anh Nguyễn Văn T). Sau đó, Q tự tay cắt gián, chỉnh sửa nội dung trên Giấy khai sinh gốc rồi sao chụp (photocopy) ra 01 bản và đưa đến UBND thị trấn Phong Nha yêu cầu chứng thực bản sao đúng với bản chính. Khi nhận được bản sao Giấy khai sinh có chứng thực của UBND thị trấn Phong Nha, Q gửi hồ sơ đến Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình để được hoãn thi hành án phạt tù theo trường hợp nuôi con dưới 36 tháng tuổi. Ngày 28/5/2021, Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình đã ban hành Quyết định hoãn thi hành án phạt tù số 09/2021/QĐ-CA quyết định cho Nguyễn Thị Q được hoãn chấp hành hình phạt 08 (tám) năm tù về tội “Vận chuyển, mua bán trái phép vật liệu nổ” tại Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2020/HSST ngày 21/4/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình. Kết luận giám định số số 1035/NĐ-PC09 ngày 02 tháng 8 năm 2021 của Phòng PC09 Công an tỉnh Quảng Bình kết luận: “Giấy khai sinh” bản sao y là tài liệu được sao chụp, cắt ghép, chỉnh sửa từ “giấy khai sinh bản gốc”. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức” và tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại khoản 1 Điều 341 của Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, việc bị cáo làm giả và sử dụng tài liệu giả là một chuổi hành vi liên tiếp, hành vi làm giả là tiền đề để bị cáo thực hiện hành vi sử dụng. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bố Trạch truy tố bị cáo ra trước Tòa án để xét xử về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức; sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Xét về tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện thấy: Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nên hoàn toàn nhận thức được hành vi cắt ghép, chỉnh sửa tài liệu của cơ quan, tổ chức và sử dụng chính tài liệu giả đó để lừa dối cơ quan, tổ chức là vi phạm pháp luật, nhưng do muốn tiếp tục trì hoãn việc thi hành án phạt tù, bị cáo bất chấp pháp luật, cố ý làm giả Giấy khai sinh bản sao để sử dụng vào việc làm hồ sơ xin hoãn thi hành án phạt tù. Và thực tế, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình đã ban hành quyết định cho bị cáo được hoãn thi hành án phạt tù. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính, hoạt động đúng đắn và uy tín của cơ quan Nhà nước trong quản lý hành chính; làm mất trật tự an toàn xã hội. Vì vậy, cần có một hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra.

[5] Xét về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo thấy: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi lượng hình. Về nhân thân: Bị cáo có 01 tiền án về tội “Vận chuyển, mua bán trái phép vật liệu nổ”.

[6] Về hình phạt: Trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo thấy: Bị cáo đã bị Toà án xử phạt tù về hành vi vận chuyển, mua bán trái phép vật liệu nổ, đã được hoãn thi hành hình phạt tù 1 lần, nhưng không nhận thức được đó là chính sách khoan hồng của pháp luật mà còn lợi dụng sự sơ hở của người thực thi công vụ, cố ý làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức để trì hoãn việc chấp hành pháp luật khi không còn đủ điều kiện. Điều này thể hiện bị cáo là người rất coi thường pháp luật, nên cần áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo để bị cáo thấy được sự nghiêm minh của pháp luật mà tích cực cải tạo, trở thành công dân biết chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, đồng thời có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung.

[7] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo đang chấp hành hình phạt tù, không tạo được thu nhập nên cần chấp nhận ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát để miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Về hành vi của Phó Chủ tịch UBND thị trấn Phong Nha và của Cán bộ Tư pháp – Hộ tịch UBND thị trấn Phong Nha thấy rằng: Quá trình thực hiện thủ tục chứng thực ông Nguyễn Trung Q và ông Phan Thanh L đã có những sai sót, chủ quan trong việc kiểm tra, đối chiếu hồ sơ yêu cầu chứng thực dẫn đến sai phạm. Tuy nhiên, quá trình điều tra không chứng minh được dấu hiệu thông đồng hay động cơ vụ lợi. Vì vậy, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Bố Trạch không truy cứu trách nhiệm hình sự mà kiến nghị UBND thị trấn Phong Nha có hình thức xử lý đối với sai phạm của ông Nguyễn Trung Q và ông Phan Thanh L là phù hợp.

[9] Về xử lý vật chứng: Xét 01 Giấy khai sinh bản sao mang tên Nguyễn Thủy T, sinh ngày 25/9/2020, họ tên mẹ Nguyễn Thị Q, họ tên cha Nguyễn Văn L được chứng thực tại UBND thị trấn Phong Nha ngày 12/5/2021 là tài liệu giả, có giá trị chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo nên cần tịch thu và tiếp tục lưu giữ theo hồ sơ vụ án.

[10] Về án phí và quyền kháng cáo: Xử buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm để nộp vào ngân sách nhà nước. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Q phạm tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức; Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

2. Về điều luật áp dụng: Áp dụng khoản 1 Điều 341; Điều 38; Điều 47; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 56 của Bộ luật hình sự; Áp dụng Điều 106, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Áp dụng Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

3. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Q 01 (Một) năm tù, tổng hợp với hình phạt 08 năm tù theo Bản án số 08/2020/HSST ngày 21/4/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 2 bản án là 09 (Chín) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án ngày 13/7/2021, được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam (từ ngày 10/8/2019 đến ngày 18/11/2019) theo Bản án số 08/2020/HS-ST.

4. Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Nguyễn Thị Q.

5. Về xử lý vật chứng: Tuyên tịch thu, lưu giữ theo hồ sơ vụ án 01 Giấy khai sinh bản sao mang tên Nguyễn Thủy T, sinh ngày 25/9/2020, họ tên mẹ Nguyễn Thị Q, họ tên cha Nguyễn Văn L được chứng thực tại UBND thị trấn Phong Nha ngày 12/5/2021 (Hiện có tại hồ sơ vụ án).

6. Về án phí: Xử buộc bị cáo Nguyễn Thị Q phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm để nộp vào ngân sách Nhà nước.

7. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 13/5/2022)./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

420
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội làm giả và sử dụng tài liệu của cơ quan, tổ chức số 28/2022/HS-ST

Số hiệu:28/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bố Trạch - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về