TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỒNG HỶ, TỈNH THÁI NGUYÊN
BẢN ÁN 14/2024/HS-ST NGÀY 08/03/2024 VỀ TỘI LÀM GIẢ TÀI LIỆU CỦA CƠ QUAN TỔ CHỨC, SỬ DỤNG TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN TỔ CHỨC
Ngày 08 tháng 3 năm 2024, tại Hội trường Tòa án nhân dân huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 10/2024/TLST-HS ngày 06/02/2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2024/QĐXXST-HS ngày 26/02/2024 đối với bị cáo:
Họ và tên: Trần Trọng Q; giới tính: Nam; sinh ngày 28/3/1981; nơi ĐKHKTT: Tổ C, phường T, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên; nghề nghiệp: Bác sĩ; Đoàn thể: Đảng viên Đ ( Đã bị đình chỉ sinh hoạt Đảng theo Quyết định số 180-QĐ/UBKT ngày 22/02/2024 của Ủy ban kiểm tra Thành ủy T2) trình độ học vấn: 12/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; con ông Trần Văn N và bà Nguyễn Thị Q1; Vợ: Bế Thị T, con: có 03 con (con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2017); Tiền án, tiền sự: không;
Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam, bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện đang tại ngoại tại địa phương, có mặt tại phiên tòa.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Bà Võ Thị H, sinh năm 1960 (Vắng mặt) Địa chỉ: TDP A, thị trấn H, huyện Đ, Thái Nguyên.
+ Ông Trương Văn T1, sinh năm 1957 (Vắng mặt) Địa chỉ: TDP A, thị trấn H, huyện Đ, Thái Nguyên.
+ Ông Trần Văn N, sinh năm 1951 (Vắng mặt) Địa chỉ: Tổ E, phường T, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên.
- Người tham gia tố tụng khác:
+ Người làm chứng: 1. Chị Bế Thị T, sinh năm 1990 (Vắng mặt) Địa chỉ: Thôn N, xã Y, huyện C, tỉnh Bắc Kạn.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 29/7/2021, bị cáo Trần Trọng Q và chị Bế Thị T ký hợp đồng thế chấp QSDĐ và tài sản gắn liền với đất đối với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ), quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số: DC 246214 do Sở T3 cấp ngày 09/7/2021 vào sổ cấp Giấy chứng nhận số cs 00274, thửa đất số 613, tờ bản đồ 12, địa chỉ phường T, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên mang tên Trần Trọng Q và Bế Thị T tại Ngân hàng Thương mại cổ phần C - Chi nhánh T4 đề vay tiền.
Khoảng tháng 11/2021, để phục vụ cho việc kê khai tài sản của cá nhân, do bản gốc GCNQSD đất đã thế chấp tại Ngân hàng để vay tiền, nên Trần Trọng Q đã sử dụng điện thoại cá nhân đăng nhập ứng dụng Zalo liên hệ với tài khoản “Dịch vụ BLX” đặt làm giả Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số: DC 246214 do Sở T3 cấp ngày 09/7/2021, với giá là 1.000.000 đồng, việc liên hệ thực hiện tại phòng làm việc tầng 1 Trung tâm chỉ huy Đội y học dự phòng Cục H2 thuộc tổ dân phố A, thị trấn H, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên, nơi Quyền công tác.
Khoảng tháng 6 năm 2020, do có quen biết với vợ chồng ông Trương Văn T1 và bà Võ Thị H cùng trú tại tổ dân phố A, thị trấn H, huyện Đ, nên Q đã vay của ông T1, bà H số tiền 100.000.000 đồng. Tháng 7 năm 2021, do mở rộng kinh doanh nên Q tiếp tục vay của ông T1, bà H 100.000.000 đồng. Ngày 29/01/2022, Quyền tiếp tục vay của ông T1, bà H 40.000.000 đồng. Cả 3 lần vay trên đều không thế chấp gì. Đến ngày 20/01/2023, ông T1, bà H yêu cầu Q phải viết gộp giấy vay tiền của hai khoản vay 100.000.000 đồng và phải có tài sản thế chấp nên Q đã đưa GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số DC 246214 mang tên Trần Trọng Q và Bế Thị T mà Q làm giả trước đó cho ông T1, bà H. Sau đó, bà H nhận thấy GCNQSDĐ của Quyền thế chấp là giả nên đã làm đơn trình báo đến Cơ quan Công an đề nghị giải quyết Tại Kết luận giám định số 1141/KL-KTHS ngày 25/9/2023 của Phòng K1 Công an tỉnh T, kết luận:
1. Hình dấu tròn đỏ trên mẫu cần giám định ký hiệu A1 làm giả bằng phương pháp in phun màu.
2. Chữ ký mang tên Kiều Quang K trên mẫu cần giám định ký hiệu A1 so với chữ ký mang tên Kiều Quang K trên mẫu so sánh ký hiệu M2, M3, M4 không phải do cùng một người ký ra.
Ngày 27/6/2023 Quân khu A Bộ Q2 đã có Quyết định số 10/QĐX-QK1, về việc cán bộ phục viên Đại úy Trần Trọng Q được phục viên từ ngày 01/7/2023 và chuyển sang ngạch dự bị theo quy định.
Tại Cơ quan điều tra, Trần Trọng Q khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nhu nêu trên.
Vật chứng của vụ án: 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả số DC 246214 mang tên Trần Trọng Q và Bế Thị T được chuyển kèm theo hồ sơ vụ án.
Tại bản Cáo trạng số 15/CT-VKSDH, ngày 06/02/2024, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đồng Hỷ truy tố Trần Trọng Q về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức” theo khoản 1 Điều 341 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo Trần Trọng Q khai nhận rõ hành vi phạm tội nhu lời khai tại cơ quan điều tra và bản cáo trạng mô tả. Bị cáo thừa nhận việc truy tố, xét xử là đúng người, đúng tội, không oan.
Tại phiên tòa, trong phần luận tội Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đồng Hỷ bổ sung bản Cáo trạng số 15/CT-VKSĐH, ngày 06/02/2024, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Trọng Q phạm tội “Làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức, sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức”:
- Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 341 Bộ luật hình sự; điểm h, i, s, V khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 35 Bộ luật hình sự xử phạt Trần Trọng Q từ 35.000.000đ đến 40.000.000đ về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức, sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức”; về vật chứng: 01 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả được lưu theo hồ sơ, bị cáo phải chịu án phí theo quy định.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát.
Trong lời nói sau cùng trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo nhận thấy hành vi của mình là sai và xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đồng Hỷ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử, Thư ký, Kiểm sát viên tiến hành tố tụng chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa là khách quan, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra về thời gian, địa điểm, quá trình thực hiện hành vi phạm tội, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác được thu thập hợp lệ có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định: Do cần GCNQSDĐ để phục vụ công tác kê khai tài sản nhưng GCNQSDĐ gốc đã thế chấp tại Ngân hàng, nên ngày 25/11/2021, tại phòng làm việc tầng 1 Trung tâm H2 thuộc tổ dân phố A, thị trấn H, huyện Đ, tỉnh Thái Nguyên, Trần Trọng Q thông qua tài khoản zalo gửi thông tin cá nhân của mình để làm giả 01 giấy chứng nhận QSDĐ số DC246214 do Sở T3 cấp ngày 09/7/2021 vào sổ cấp Giấy chứng nhận số CS 00274, thửa đất số 613, tờ bản đồ 12, địa chỉ phường T, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên. Do trước đó bị cáo có vay 240.000.000đ của ông Trương Văn T1 và bà Võ Thị H, đến ngày 20/01/2023, ông T1, bà H yêu cầu phải thế chấp tài sản để làm tin, nên Q đã sử dụng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã làm giả ở trên đưa cho ông T1, bà H để làm tin.
Do vậy, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức, sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức”, theo quy định tại khoản 1 Điều 341 Bộ luật hình sự.
Nội dung điều luật quy định như sau:
“1. Người nào làm giả ... tài liệu... của cơ quan, tổ chức... sử dụng... tài liệu... giả thực hiện hành vi trái pháp luật, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 02 năm.
...” Bản Cáo trạng số 15/CT-VKSĐH, ngày 06/02/2024 và bản luận tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đồng Hỷ truy tố Trần Trọng Q theo tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ.
[3] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến hoạt động bình thường của cơ quan Nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương. Bị cáo phải chịu trách nhiệm về hành vi phạm tội của mình.
Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy: Bị cáo là bác sĩ có chuyên môn, nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, trong quá trình điều tra, truy tố khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải, hành vi của bị cáo chưa gây thiệt hại, bị cáo đã có nhiều năm cống hiến cho quân đội và được tặng thưởng Huy chương chiến sỹ vẻ vang. Bị cáo có bố đẻ là ông Trần Văn N là người có công với cách mạng, được tặng thưởng nhiều huân chương.Vì vậy bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, i, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.
[4] Về hình phạt: Xét về nhân thân bị cáo thấy bị cáo có nhân thân tốt, có việc làm và có noi cư trú ổn định, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, sau khi phạm tội đã thực sự thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải, xét không cần cách ly bị cáo khỏi xã hội mà áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo cũng đủ tác dụng giáo dục đối với bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.
Xét đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa thấy phù hợp, cần chấp nhận.
[5] Về vật chứng: 01 giấy CNQSD đất giả là căn cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo, cần tiếp tục lưu trong hồ sơ vụ án.
[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về hình phạt chính: Căn cứ vào khoản 1 Điều 341; điểm h, i, s, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 35 Bộ luật hình sự.
Xử phạt Trần Trọng Q 40.000.000 đồng (Bốn mươi triệu đồng) để nộp ngân sách Nhà nước về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức, sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức”.
2. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
Lưu hồ sơ vụ án: 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất giả số DC 246214 do Sở T3 cấp ngày 09/7/2021 vào sổ cấp Giấy chứng nhận số CS 00274, thửa đất số 613, tờ bản đồ 12, địa chỉ phường T, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên mang tên Trần Trọng Q và Bế Thị T.
3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí; buộc bị cáo Trần Trọng Q phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.
Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Trương Văn T1, bà Võ Thị H, ông Trần Văn N vắng mặt, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tống đạt bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án về tội làm giả tài liệu của cơ quan tổ chức, sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức số 14/2024/HS-ST
Số hiệu: | 14/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đồng Hỷ - Thái Nguyên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về