TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 71/2023/HS-ST NGÀY 06/03/2023 VỀ TỘI LÀM GIẢ TÀI LIỆU CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC
Ngày 06 tháng 3 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 387/2022/TLST-HS ngày 27 tháng 12 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 51/2023/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 02 năm 2023 đối với bị cáo:
Hà Văn T, sinh năm 1987 tại tỉnh Thanh Hóa; nơi thường trú: Số 104 AN, phường 17, quận GV, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Nhân viên công ty xây dựng; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hà Văn Q và bà Hoàng Thị L; bị cáo có vợ tên Trần Thị Thanh Y và 02 người con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 28/4/2022 bị Cảnh sát Giao thông tỉnh Bình Dương xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền theo Quyết định số 4581/QĐ-XPHC. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 22/4/2022 đến nay, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hà Văn T không có giấy phép lái xe mô tô hạng A1 nên vào khoảng tháng 6/2021, T tìm kiếm trên Facebook rồi liên hệ với 01 đối tượng (chưa rõ lai lịch), cung cấp thông tin cá nhân, chứng minh nhân dân của mình và 03 tấm hình thẻ 3x4cm cho đối tượng với mục đích để làm giả giấy phép lái xe mô tô hạng A1 với giá 1.000.000 đồng. Khoảng 02 tuần sau, T nhận được hàng và thanh toán số tiền 1.000.000 đồng cho nhân viên giao hàng, T cất giữ giấy phép lái xe mô tô giả trong bóp để sử dụng khi tham gia giao thông. Đến khoảng 20 giờ 20 phút ngày 22/4/2022, T điều khiển xe mô tô biển số: 59V3-453.xx lưu thông hướng từ ngã ba An Sơn về khu công nghiệp TB trên đường Đại lộ Bình Dương thuộc khu phố TB, phường AT, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương thì bị Đội tuần tra Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Bình Dương kiểm tra. Quá trình kiểm tra, phát hiện 01 giấy phép lái xe mang tên Hà Văn T, sinh ngày: 30/12/1987, nơi cư trú: 104 AN, phường 17, Quận GV, Thành phố Hồ Chí Minh, số 5102118968xx hạng A1 do Sở giao thông vận tải thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 10/10/2021 có dấu hiệu nghi vấn là giả nên tổ công tác tiến hành lập biên bản tạm giữ phương tiện, tang vật liên quan, sau đó mời T về trụ sở làm việc. Quá trình điều tra, Hà Văn T khai nhận hành vi phạm tội của mình.
Vật chứng thu giữ: 01 xe mô tô hiệu Honda, loại Air Blade, biển số 59V3 – 453.xx; 01 giấy phép lái xe số: 5102118968xx hạng A1, mang tên Hà Văn T.
Kết luận giám định số 214/KL-KTHS ngày 27/4/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: 01 giấy phép lái xe (PET) số: 5102118968xx, hạng A1, họ tên: Hà Văn T, sinh năm 1987, nơi cư trú: 104 AN, phường 17, quận GV, Thành phố Hồ Chí Minh, đề ngày 10/10/2021 (ký hiệu A) là giả.
Cáo trạng số: 13/CT-VKS-TA ngày 27/12/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Hà Văn T về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”, tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo khoản 1 Điều 341 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa:
- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:
+ Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng khoản 1 Điều 341; điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Hà Văn T mức hình phạt từ 08 (tám) tháng đến 10 (mười) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 01 (một) năm 04 (bốn) tháng đến 01 (một) năm 08 (tám) tháng.
+ Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:
- Đối với 01 xe mô tô hiệu Honda, loại Air Blade, biển số 59V3 – 453.xx là tài sản của bị cáo T, cơ quan điều tra đã trả lại cho T.
- Đối với 01 Giấy phép lái xe (PET) số: 5102118968xx, hạng A1, họ tên: Hà Văn T, sinh năm: 1987, nơi cư trú: 104 AN, Phường 17, Quận GV, Thành phố Hồ Chí minh, đề ngày 10/10/2021 (ký hiệu A) là giấy tờ giả đề nghị tiếp tục lưu giữ trong hồ sơ vụ án.
- Bị cáo Hà Văn T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, thống nhất với nội dung của Bản kết luận điều tra và Cáo trạng, thống nhất với tội danh và khung hình phạt bị truy tố và không có ý kiến gì khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của những người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[1.2] Bị cáo có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt với lý do bị cáo là trụ cột gia đình, thường xuyên phải xa nhà và làm nhiều công việc khác nhau để trang trai cuộc sống. Xét thấy, bị cáo có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt là tự nguyện, không bị ai ép buộc, yêu cầu của bị cáo phù hợp với quy định tại điểm c khoản 2 Điều 290 của Bộ luật tố tụng Hình sự nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[2] Bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương đã truy tố. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, do đó Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:
[2.1] Khoảng tháng 6/2021, Hà Văn T đã có hành vi cung cấp thông tin cá nhân, hình ảnh của mình nhờ một đối tượng (chưa rõ lai lịch, liên lạc qua mạng xã hội facebook) để làm giả 01 giấy phép lái xe mô tô hạng A1 mang tên Hà Văn T. Đến khoảng 20 giờ 20 phút ngày 22/4/2022, Hà Văn T mang theo giấy phép lái xe hạng A1 giả trên người, điều khiển xe mô tô biển số: 59V3 - 453.xx lưu thông trên đường, khi đến khu vực khu phố TB, phường AT, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương thì bị Công an giao thông tỉnh Bình Dương phát hiện, thu giữ.
[2.2] Bị cáo thực hiện hành vi cung cấp thông tin, hình ảnh của mình với mục đích nhờ làm giả bằng lái xe mô tô và mang theo trong người khi đi đường để đối phó với cơ quan chức năng khi bị kiểm tra hành chính, không sử dụng vào mục đích gì khác. Do đó hành vi của bị cáo chỉ đủ yếu tố cấu thành tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại khoản 1 Điều 341 của Bộ luật Hình sự, Cáo trạng truy tố bị cáo về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại khoản 1 Điều 341 của Bộ luật Hình sự là chưa phù hợp.
[2.3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính, xâm phạm đến sự hoạt động bình thường và uy tín của các Cơ quan Nhà nước, tổ chức. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự và phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp.
[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Ngoài ra bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, là lao động chính trong gia đình, đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[5] Xét thấy, bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, bị cáo phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, bị cáo có khả năng tự cải tạo tại địa phương, do đó việc cho bị cáo hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội và đủ sức răn đe, giáo dục bị cáo.
[6] Mức hình phạt mà Kiểm sát viên đề nghị xử phạt bị cáo là phù hợp nên được chấp nhận.
[7] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:
- Đối với 01 xe mô tô hiệu Honda, loại Air Blade, biển số 59V3 – 453.xx là tài sản của bị cáo T, cơ quan điều tra đã trả lại cho T là phù hợp.
- Đối với 01 Giấy phép lái xe (PET) số: 5102118968xx, hạng A1, họ tên: Hà Văn T, sinh năm: 1987, nơi cư trú: 104 AN, Phường 17, Quận GV, Thành phố Hồ Chí minh, đề ngày 10/10/2021 (ký hiệu A) là giấy tờ giả cần được tiếp tục lưu giữ trong hồ sơ vụ án.
[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm quy định. Vì các lẽ trên, Căn cứ vào:
QUYẾT ĐỊNH
- Khoản 1 Điều 341; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 48; Điều 65 của Bộ luật Hình sự;
- Các Điều 106, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
- Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 – 12 – 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
1. Về trách nhiệm hình sự:
Tuyên bố bị cáo Hà Văn T phạm tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức”;
Xử phạt bị cáo Hà Văn T 08 (tám) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (một) năm 06 (sáu) tháng, tính từ ngày tuyên án.
Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân Phường 17, quận GV, Thành phố Hồ Chí Minh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ hai lần trở lên theo quy định của Luật thi hành án hình sự, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của Bản án đã cho hưởng án treo.
4. Về án phí:
Bị cáo Hà Văn T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo:
Bị cáo vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai.
Bản án về tội làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức số 71/2023/HS-ST
Số hiệu: | 71/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 06/03/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về